Diễn Đàn
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Diễn Đàn

/

 
Trang ChínhGalleryTìm kiếmLatest imagesĐăng kýĐăng Nhập
Những bài suy niệm GIÁNG SINH - Page 2 Sudieptutroi

 

 Những bài suy niệm GIÁNG SINH

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Chuyển đến trang : Previous  1, 2
Tác giảThông điệp
PeterLuong
Admin

Admin
PeterLuong

Giới tính : Nam
Tổng số bài gửi : 668
Điểm NHIỆT TÌNH : 1851
Ngày tham gia : 17/08/2009
Đến từ : Peterluong80@yahoo.com
Job/hobbies : I Love You Jesus

Những bài suy niệm GIÁNG SINH - Page 2 Vide
Bài gửiTiêu đề: Những bài suy niệm GIÁNG SINH   Những bài suy niệm GIÁNG SINH - Page 2 EmptyWed Dec 21, 2011 6:58 pm




    First topic message reminder :

    Các bài suy niệm LỄ GIÁNG SINH
    Lời Chúa:
    Lễ Đêm: Is 9, 2-4. 6-7; Tt 2, 11-14; Lc 2, 1-14
    Lễ Rạng Đông: Is 62, 11-12; Tt 3, 4-7; Lc 2, 15-20
    Lễ Ban Ngày: Is 52,7-10; Dt 1,1-6; Ga 1,1-18

    • MỤC LỤC
      SUY NIỆM
      1. Con người - Lc 2,1-20
      2. Vì Ngài Ở Với Chúng Ta - Lc 2,1-14
      3. Đừng thờ lầm - Ga 1, 1-18
      4. Ngôi Lời là ánh sáng thật
      5. Vinh danh Thiên Chúa trên trời - Lc 2,1-14
      6. Đêm Ánh Sáng – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
      7. Lời ngỏ của Tình Yêu - Ga 1,1-18
      8. Noel: Lễ nhập cuộc – ĐGM. Vũ Duy Thống
      9. Ngôi Lời đã trở nên người phàm - Ga 1,1-8
      10. Suy niệm của R. Gutzwiller – Lc 2, 1-20
      11. Sứ điệp vinh quang và bình an – Lc 2,1-14
      12. Ánh sáng nào soi chiếu trong ta? (Ga 1,1-18)
      13. Ngạc nhiên
      14. Đêm Thánh
      15. Chúa giáng trần (Ga 1, 1-18)
      16. NOEL: Tình bạn
      17. NOEL: Hữu hình
      18. NOEL: Lễ vật dâng Chúa
      19. NOEL: Đổi đời
      20. Đêm An Bình
      21. GIÁNG SINH: Nhập thể (Ga 1, 1-18)
      22. GIÁNG SINH: Hoà Bình (Ga 1, 1-18)
      23. Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương
      24. Chiêm ngắm Ngôi Lời
      25. Suy niệm của Lm. Trương Đình Hiền
      26. Sức mạnh - Lc 2,1-20
      27. Chuẩn bị chỗ cho niềm vui.
      28. Thiên Chúa làm người vì chúng ta – Noel Quesson
      29. NOEL: Yêu thương
      30. Vinh danh
      31. Ai thực sự mừng lễ Chúa Giáng Sinh
      32. Lễ Giáng Sinh - JKN
      33. Tìm kiếm
      34. Món quà vô giá
      35. Giáng Sinh: Ánh sáng
      36. Bài giảng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
      37. "Emmanuel, Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta"
      38. Bài thánh ca hát mừng Chúa Giáng sinh
      CHÚ GIẢI
      1. Chú giải của William Barclay
      2. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
      3. Chú giải của Fiches Dominicales
      4. Chú giải của Noel Quesson





    SUY NIỆM

    1. Con người - Lc 2,1-20


      Ngày nay, con người là một vấn đề được chú ý nhiều nhất. Càng ngày những công trình bác ái càng được phát huy sâu rộng. Càng ngày người ta càng cảm thấy sự tôn trọng và thăng tiến con người là một yếu tố cần thiết làm nên văn minh, cũng như làm cho dân giàu nước mạnh. Lý tưởng mà con người mơ ước và theo đuổi mỗi ngày một cao đẹp và phong phú hơn. Từ đó, chúng ta đi vào mầu nhiệm giáng
      sinh.

      [font=&quot]Thực vậy, với mầu hiệm giáng sinh, thì yếu tố con người cũng là yếu tố hàng đầu. Bởi vì cái giá mà Thiên Chúa đã trả để giải quyết vấn đề con người chứng tỏ con người thực là quan trọng. Đúng thế, trong kinh Tin Kính chúng ta vốn hằng tuyên xưng: Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế.

      Ngài đã cùng với những người thành tâm thiện chí phấn đấu đẩy lùi những gì là xấu xa và phát huy những gì là tốt đẹp,
      xứng với phẩm giá con người. [/font">

      Như thế, con người chính là đối tượng của mầu nhiệm giáng sinh, chính vì mỗi người chúng ta mà Ngài đã đến, đến để giúp chúng ta tìm được hạnh phúc ở đời này và đời sau. Hơn thế nữa, cũng chính vì con người mà Ngài đã đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng trên thập giá, để cứu chuộc chúng ta, tha thứ cho chúng ta, trả lại cho chúng ta địa vị làm con cái Chúa, đã mất đi vì tội lỗi và cho chúng ta được thừa hưởng phần sản nghiệp Nước Trời.


      Mỗi khi chúng ta giúp đỡ người khác, nhất là những người ngheo túng và khổ đau, thì đó là chúng ta đã cộng tác với Chúa, hay nói một cách mạnh mẽ hơn, thì đó là chúng ta đã giúp đỡ cho chính Chúa vậy.

      Cái nhìn lạc quan trên đây giúp chúng ta phấn khởi để cùng nhau tích cực góp phần giải quyết vấn đề con người hôm nay, nhất là những kẻ bị xã hội ruồng bỏ. Nếu chúng ta biết rằng vấn đề con người là quan trọng đến nỗi chính Thiên Chúa đã phải dấn thân, đã phải nhập cuộc
      để giải quyết, thì bất cứ ai thiện chí góp phần vào đều đáng được kể là cộng tác với Thiên Chúa, dù người đó không cùng một quan điểm, không cùng một niềm tin với chúng ta.







    PeterLuong






Được sửa bởi PeterLuong ngày Wed Dec 21, 2011 10:15 pm; sửa lần 2.
Về Đầu Trang Go down
http://www.clcgk.forumvi.com

Tác giảThông điệp
PeterLuong
Admin

Admin


Tổng số bài gửi : 668
Ngày tham gia : 17/08/2009

Những bài suy niệm GIÁNG SINH - Page 2 Vide
Bài gửiTiêu đề: Re: Những bài suy niệm GIÁNG SINH   Những bài suy niệm GIÁNG SINH - Page 2 EmptyWed Dec 21, 2011 9:45 pm




    31. Ai thực sự mừng lễ Chúa Giáng Sinh


      Chắc bạn cùng đồng ý với tôi khi nói: Đêm mừng Chúa giáng sinh trở thành đêm hội của mọi người và của thế giới. Tôi thấy đường đi đông quá: người đi xe, kẻ đi bộ nườm nượp. Tôi cũng để ý, nét mặt mọi người đều ánh lên vẻ vui tươi, hân hoan. Hình như đêm nay ít người ở trong nhà, nhưng người ta ra khỏi nhà nhiều hơn. Rõ ràng, Giáng Sinh trở thành đêm hội của mọi người. Chắc bạn cũng như tôi đều hãnh diện vì lễ Giáng Sinh không chỉ là lễ của người có đạo mà nó là lễ của mọi người. Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người đã được mọi người biết đến.

      Thế nhưng trong niềm hãnh diện đó, tôi lại cảm thấy một cái gì băn khoăn, ray rứt, xót xa. Chính lời thiên thần hát trong đêm giáng sinh làm tôi phải âu lo. Âu lo không vì thiên thần hát, cũng không phải vì lời hát của thiên thần. Lời ấy làm cho lòng tôi thêm yêu mến và thánh thiện. Có thể bạn sẽ cho tôi là bi quan. Tôi lo vì nhìn vào thực tế, nhận ra sự vô tâm của nhiều người. Lời của thiên thần hát là lời gì? Thiên thần hát rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm". Đêm nay có bao nhiêu tâm hồn làm vinh danh Thiên Chúa? Và nếu hiểu "thiện tâm" là thành tâm thiện chí thì có bao nhiêu người thành tâm thiện chí tôn thờ Chúa để được bình an vì đại đa số nhân loại đã làm mất ý nghĩa của lễ Giáng Sinh? Thay vì kỷ niệm Ngôi Hai nhập thể làm người, để hướng tâm hồn chuẩn cho ngày Người trở lại, người ta biến đêm hội giáng sinh thành đêm của ăn chơi sa sỉ. Đêm nay biết bao nhiêu nhà hàng vũ trường mở rộng để đón khách, và sẵn sàng mở mọi dịch vụ để chìu chuộng khách, dù cho có những dịch vụ hết sức đê hèn. Biết bao nhiêu tụ điểm vui chơi đang hoạt động rầm rộ.
      Chúng ta nghĩ đến Palestina mà cảm thấy ngậm ngùi. Thành phố Bêlem, nơi Đấng Cứu Thế đã từng cất tiếng khóc đầu tiên, đêm giáng sinh lại không thể sống trong hòa bình. Trên chính quê hương của Chúa Giêsu, nơi mà hai ngàm năm trước, Người đã sinh ra, lớn lên. Và Tin Mừng được rao giảng cho cả thế giới cũng khởi đi từ đất nước này, khi mà cả thế giới nô nức tưởng niệm Chúa Giêsu sinh ra, Palestin lại chim trong chiến tranh. Người ta đang giết hại lẫn nhau. Khúc hát thiên thần: "Bình an dưới thế cho người thiện tâm" không có được trên chính quê hương của Chúa Giêsu.

      Biết bao nhiêu tụ điểm ca nhạc, có thể là những bài ca rất giáng sinh, ca ngợi Thiên Chúa. Nhưng những ca sĩ và những người nghe những bài hát đó có được một tâm hồn ca ngợi Thiên Chúa không, hay chỉ là một thứ vui chơi nào đó? Biết bao nhiêu chàng trai cô gái đêm nay ra khỏi nhà để vui đêm hội giáng sinh? Và trong dòng người trẻ đó, chắc hẳn có rất nhiều thanh niên nam nữ có đạo đánh đổi việc thờ phượng Thiên Chúa bằng những thú vui vô giá mà những người không có niềm tin đang say mê? Và có biết bao nhiêu chàng trai cô gái choi choi, ào ra đường bằng những chiếc xe phân khối lớn để lạng lách, để đua xe hết tốc độ, để rồi gieo không biết bao tai họa?

      Nếu đêm Chúa sinh ra - đêm hội Giáng Sinh là dịp để người lao động vất vả, cả lương lẫn giáo có thời gian nghỉ ngơi, có dịp vui chơi giải trí lành mạnh, đêm mà mọi người tạm quên đi những gánh nặng, những lo âu của cuộc đời vốn đã có quá nhiều đắng cay. Nếu đêm hội Giáng Sinh làm cho người ta hạnh phúc như vậy, thì nó mới đúng ý nghĩa của mầu nhiệm Chúa làm người.

      Cách riêng, đối với người Công giáo, đêm Giáng Sinh phải là đêm đặc biệt của việc tôn thờ Thiên Chúa. Đêm kính nhớ tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa. Chính nhờ tình yêu này, mà Chúa Giêsu đã giáng sinh làm người, chia sẻ kiếp người của mỗi chúng ta. Có tôn thờ Thiên Chúa thật lòng như thế, thì Thiên Chúa trên trời mới được vinh danh trong tâm hồn của mỗi người. Và tâm hồn chỉ dành cho Thiên Chúa mà thôi, tâm hồn mới có bình an.

      Tin rằng bạn và tôi là những người thành tâm, thiện chí tôn thờ Thiên Chúa. Xin hãy tạm quên những lo toan, những vất vả hằng ngày. Hãy tạm gác lại một bên những gì làm chúng ta xôn xao, chia trí, gác lại một bên cái nghèo, cái khổ của cuộc đời để bạn và tôi thực sự được bình an trọn vẹn trong thánh lễ này. Có như vậy, chúng ta mới dâng thánh lễ Giáng Sinh, thờ phượng Thiên Chúa cách sốt sắng và ý nghĩa.

      Xin kính chúc các bạn MỘT ĐÊM AN BÌNH, vì chúng ta là những người thiện tâm, đúng như lời thiên thần hát: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm".






    PeterLuong




Về Đầu Trang Go down
http://www.clcgk.forumvi.com
PeterLuong
Admin

Admin


Tổng số bài gửi : 668
Ngày tham gia : 17/08/2009

Những bài suy niệm GIÁNG SINH - Page 2 Vide
Bài gửiTiêu đề: Re: Những bài suy niệm GIÁNG SINH   Những bài suy niệm GIÁNG SINH - Page 2 EmptyWed Dec 21, 2011 9:48 pm




    32. Lễ Giáng Sinh - JKN


      Câu hỏi gợi ý:


      1. Nếu bạn khám phá ra cha bạn - một người rất giàu có - đã xếp đặt để mẹ bạn sinh bạn ra trong một chuồng bò hay chuồng heo của nhà ai đó, bạn sẽ nghĩ thế nào về cha của bạn? Bạn lý giải thế nào về việc Thiên Chúa đã quan phòng để Đức Giêsu, Con Ngài, ra chào đời trong một chuồng bò?
      2. Đặt mình vào địa vị của Đức Maria và thánh Giuse, bạn sẽ nghĩ và nói thế nào về Thiên Chúa khi hai Ngài phải rời Nagiarét vào Bêlem, không tìm được chỗ trọ, và phải sinh con trong chuồng bò?
      3. Tại sao Thiên Chúa lại để cho Đức Giêsu phải chịu đau khổ, nhục nhã từ khi sinh ra đến lúc chết? Thiên Chúa ghét và muốn hành hạ Con của Ngài chăng? Nếu không, phải lý giải thế nào về sự kiện ấy?


      Chia Sẻ

      1. Con Thiên Chúa cao sang lại sinh ra trong cảnh tột hèn kém
      Chúng ta thử tưởng tượng xem một vị hoàng đế trần gian nếu biết trước đứa con mình sinh ra sẽ là vị cứu tinh của trần gian, thì hoàng đế ấy sẽ chuẩn bị cho người con ấy chào đời như thế nào? Chắc chắn ông sẽ chuẩn bị cho con mình một nơi thật xứng đáng, với quần áo, tã lót, chăn mền... thật sang trọng. Và cũng tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho người mẹ sẽ sinh ra con mình. Chính vì tưởng rằng Thiên Chúa trên trời cũng suy nghĩ như mình, nên người Do Thái thời Đức Giêsu đã tưởng Đấng Cứu Thế sẽ phải sinh ra trong cung vàng điện ngọc. Nhưng họ không ngờ Thiên Chúa suy nghĩ khác hẳn với cách nghĩ của họ!

      Theo Tin Mừng, Đức Giêsu đã sinh ra trong hang bò lừa. Đã là chỗ nuôi và chứa sức vật đương nhiên phải hôi tanh và bẩn thỉu. Chắc chắn Giuse và Maria phải hết sức ngỡ ngàng khi thấy Thiên Chúa đối xử với mình, nhất là với Đấng Cứu Thế hài nhi như vậy! Nhục nhã thay cho Đấng Cứu Thế! Bất kỳ ai biết mình chào đời trong một chỗ tối tăm và nhục nhã tận cùng như thế đều không tránh được mặc cảm cho rằng cuộc đời mình cũng sẽ tối tăm và nhục nhã như thế!? Trước sự thật phũ phàng trước mắt, chắc hẳn phải có lúc hai ông bà nghi ngờ rằng: liệu lời thiên sứ nói với mình về đứa trẻ mình sinh ra có thật hay không? Nghi ngờ để rồi lại tự nhủ, tự an ủi, tự tìm lấy lý do để cố mà tin cho vững hơn! Thực tế thật phũ phàng, nhưng đó lại chính là thánh ý của Thiên Chúa. Muốn cứu thế giới khỏi những nhơ nhớp của tội lỗi, Con của Ngài cũng phải nhập thể từ chốn nhơ nhớp nhất của trần thế! Muốn đưa con người lên thật cao, Thiên Chúa nhập thể phải xuống cho thật thấp, thấp đến tận cùng!

      2. Cách xếp đặt của Thiên Chúa… thật hết sức nghịch lý!

      Thật là nghịch lý và không thể hiểu nổi cách Thiên Chúa đối xử với người Con độc nhất và hết sức yêu quí của Ngài, và với hai người đặc biệt mà Ngài chọn để hạ sinh, bảo vệ và nuôi dưỡng người Con ấy! Giuse và Maria đang sống yên lành tại Nagiarét, những tưởng đứa con trong bụng nàng sẽ ra đời tại nhà mình ở làng ấy. Chắc hẳn chàng và nàng đã mua sắm đồ này vật nọ để chuẩn bị cho xứng đáng với chức vị cao cả của đứa bé sắp chào đời! Nào ngờ chiếu chỉ kiểm tra dân số của Hoàng Đế Rô-ma đã đảo lộn tất cả, đã đẩy đôi trai gái đức hạnh - chỉ biết nghĩ đến thánh ý Thiên Chúa - vào một cuộc phiêu lưu bất ngờ đầy gian khổ!

      Từ làng Nagiarét vùng Galilê thuộc miền Bắc Do Thái, chàng và nàng phải vượt qua vùng Samari đầy đồi núi của miền Trung để về tận làng Bêlem vùng Giuđê thuộc miền Nam Do Thái. Đường chim bay đo theo tỷ lệ xích trên bản đồ cũng phải là 120 cây số, đường ngòng ngoèo trong thực tế hẳn phải trên 150 cây. Thời ấy có lẽ hai người phải dùng một con la để di chuyển. Hành trình chắc chắn vất vả! Điều nghịch lý nhất nằm ở chỗ Thiên Chúa lại quan phòng cho ngày phải di chuyển ấy xảy ra khi Maria mang thai đến thời kỳ sinh nở. Sau một hành trình vất vả như thế, khi tới nơi những tưởng Thiên Chúa sẽ dành cho Con của Ngài một chỗ để sinh nở tương đối xứng đáng, nhưng khốn thay... tất cả mọi người mọi nơi đều từ chối! Nếu hai ông bà có tiền, chắc hẳn không đến nỗi! Chưa sinh ra, Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể đã phải đối diện với sự ích kỷ và tính coi trọng tiền bạc hơn tình nghĩa của con người! Không kiếm được chỗ để trọ và sinh con, hai ông bà đành trọ và sinh con trong chuồng súc vật!

      Kết quả của những nghịch lý ấy là gì? ai phải khổ đây? Cả gia đình gồm 3 người Giuse, Maria và Giêsu là khổ nhất. Phải chăng Thiên Chúa ghét và muốn đày đọa gia đình này? Chắc chắn không phải! - Có thể nói đây là gia đình quan trọng nhất, được Thiên Chúa quan tâm, ưu ái đặc biệt nhất! Vì thế, nếu đã xảy ra như vậy - đương nhiên là do sự quan phòng vô cùng khôn ngoan của Thiên Chúa - thì ắt hẳn đây phải là cách có lợi nhất cho đại cuộc cứu chuộc nhân loại. Như vậy, vì đại cuộc, Thiên Chúa buộc những «người của Ngài» phải hy sinh, phải chấp nhận nhục nhã, đau khổ hơn những người khác. Nhưng bù lại, Ngài sẽ ân thưởng cho «người của Ngài» vinh quang, hạnh phúc cao quí nhất!

      3. Nghịch lý... nhưng lại rất hợp lý và khôn ngoan

      Như vậy ta thấy Thiên Chúa coi hạnh phúc hay đau khổ, vinh quang hay nhục nhã chóng qua trong hiện tại không quan trọng bằng hạnh phúc hay đau khổ, vinh quang hay nhục nhã lâu dài trong tương lai. Nếu phải chịu khổ hay chịu nhục một chút trong hiện tại để rồi được hạnh phúc hay vinh quang lâu dài trong tương lai, thì ai khôn ngoan cũng đều sẵn sàng chấp nhận. Còn nếu được hưởng hạnh phúc hay vinh quang thật ngắn ngủi trong hiện tại để rồi phải chịu đau khổ và nhục nhã lâu dài trong tương lai, thì chỉ có người ngu mới chấp nhận! Những cha mẹ thật sự yêu thương con cái sẵn sàng chọn lựa để con cái mình phải đau khổ hay chịu nhục nhã một chút hầu về sau chúng được hạnh phúc và vinh quang lâu dài. Bạn chưa tin ư? Này nhé, giả như bạn phải chọn lựa cho bạn hoặc cho con cái bạn giữa ba khả thể sau đây, thì bạn chọn khả thể nào: một là đau khổ hiện tại 1 mà hạnh phúc tương lai 10, hai là đau khổ hiện tại 2 mà hạnh phúc tương lai 100, và ba là đau khổ hiện tại 3 mà hạnh phúc tương lai 1.000? Chắc chắn bạn sẽ chọn khả thể thứ ba. Thiên Chúa cũng chọn lựa cho những người Ngài đặc biệt yêu thương tương tự như vậy. Chính vì thế, Ngài sẵn sàng để Đức Giêsu, Người Con độc nhất mà Ngài yêu quý nhất phải chịu đau khổ và nhục nhã ngay từ khi chào đời đến giây phút cuối cùng của cuộc đời để cứu chuộc nhân loại, hầu cuối cùng, trong vĩnh cửu, Đức Giêsu trở thành người hạnh phúc và vinh quang nhất không ai sánh bằng!

      Nếu ta biết nhìn bằng con mắt đức tin và khôn ngoan như thế, thì việc Đức Giêsu phải chịu đau khổ và nhục nhã từ khi sinh ra cho đến hết cuộc đời sẽ trở thành một sự kiện bảo đảm, một căn cứ để hy vọng, và một niềm an ủi lớn lao cho ta khi ta gặp phải những đau khổ lớn lao trong cuộc đời. Khi Thiên Chúa dành cho chúng ta đau khổ hay nhục nhã trong hiện tại, thì điều đó không có nghĩa là Ngài ghét bỏ ta. Trái lại có thể là Ngài đang dành cho ta một ưu đãi, một sự yêu thương đặc biệt mà ta có quyền chấp nhận hay từ chối. Nếu tự nguyện chấp nhận thì hạnh phúc và vinh quang của ta sẽ rất lớn, và lớn thế nào tùy thuộc vào chất lượng sự tự nguyện của ta và mức độ đau khổ ta sẵn sàng đón nhận. Nếu từ chối, ta sẽ bỏ lỡ một cơ hội quí báu mà Thiên Chúa vì yêu thương đã dành cho ta, vì «những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta!» (Rm 8,18).

      Vậy, người thường hay kẻ không tin kêu ca về nghịch cảnh, về đau khổ mình phải chịu thì không có gì là lạ. Nhưng người Kitô hữu, người mang danh theo Chúa, người có lý tưởng tông đồ, người được Chúa chọn, được mang danh là «người của Ngài», mà lại than vãn khi gặp nghịch cảnh thì quả là... vẫn còn sống theo tính xác thịt, như thánh Phaolô đã phiền trách: «Tôi không thể nói với anh em như với những con người sống theo Thần Khí, nhưng như với những con người sống theo tính xác thịt, như với những trẻ nhỏ trong Đức Kitô. Tôi đã cho anh em uống sữa chứ không cho dùng thức ăn, vì anh em chưa chịu nổi. Nhưng bây giờ anh em cũng vẫn còn không chịu nổi, vì anh em còn là những con người sống theo tính xác thịt» (1Cr 3,1-3).

      Cầu nguyện

      Lạy Cha, Đức Giêsu sinh ra thật nhục nhã và sống một cuộc đời đầy đau khổ, nhưng đã sống lại trong vinh quang và trở thành Chúa Tể trời đất. Qua sự việc ấy con mới hiểu được giá trị của đau khổ. Đúng lý ra khi gặp đau khổ, nhục nhã, trái ý… con phải vui mừng vì biết khi cho phép xảy ra như vậy là Cha thương con cùng một cách như Cha đã từng thương Đức Giêsu và bao vị thánh của Cha. Đúng ra con nên nói «con được đau khổ» chứ không phải «con bị đau khổ»!






    PeterLuong






Được sửa bởi PeterLuong ngày Wed Dec 21, 2011 9:51 pm; sửa lần 1.
Về Đầu Trang Go down
http://www.clcgk.forumvi.com
PeterLuong
Admin

Admin


Tổng số bài gửi : 668
Ngày tham gia : 17/08/2009

Những bài suy niệm GIÁNG SINH - Page 2 Vide
Bài gửiTiêu đề: Re: Những bài suy niệm GIÁNG SINH   Những bài suy niệm GIÁNG SINH - Page 2 EmptyWed Dec 21, 2011 9:50 pm




    33. Tìm kiếm

      Chuyện kể rằng, có hai người bạn chia tay nhau đi tìm điều quí giá nhất trên đời. Họ hẹn sẽ gặp lại sau khi đã tìm thấy. Người thứ nhất đi tìm viên ngọc quí. Bất cứ nơi nào bán đá quí, anh đều tìm đến. Cuối cùng, anh cũng mãn nguyện vì đã tìm được viên ngọc quí, anh trở lại quê hương chờ bạn.

      Người thứ hai đi tìm Chúa. Anh đi khắp nơi thọ giáo các bậc thánh hiền, cặm cụi đọc sách, nghiền ngẫm, nhưng vẫn không tìm được Chúa.

      Nhiều năm trôi qua, đang lúc tuyệt vọng, anh nhìn dòng sông lững lờ: một đàn vịt con đang bơi lội tung tăng. Trong khi vịt mẹ tìm con, thì bày con lại cứ muốn rời mẹ tìm ăn riêng. Vịt mẹ chẳng hề tỏ vẻ giận dữ, cứ lẽo đẽo theo bày con và gom chúng lại. Thấy cảnh vịt mẹ mải mê tìm con như thế, anh mỉm cười trở về quê hương.

      Khi người bạn hỏi điều quí mà anh đã tìm được là gì, khiến gương mặt anh rạng rỡ như thế. Lúc đó, con người trở về với hai bàn tay trắng, nhưng tâm hồn tràn ngập niềm vui mới thốt lên: - Điều quí giá mà tôi đã tìm thấy, đó là trong khi tôi đi tìm Chúa, thì chính Người đã đi tìm tôi. “Ngôi Lời đã nhập thể, và cư ngụ giữa chúng ta”. Nhiều khi chúng ta tưởng mình đi tìm Chúa, nhưng thật sự là chính Chúa đi tìm chúng ta trước.

      Ngay khi con người sa ngã phạm tội, Thiên Chúa đã lên kế hoạch cứu chuộc. Ngay khi con người phản bội bất trung, Thiên Chúa đã mở lối cho họ quay bước trở về. Ngay khi con người vô phương cứu lấy chính mình, Thiên Chúa đã sai Con Một đem thân cứu độ.
      Đêm nay là đêm giao duyên đất trời, đêm hội hoa đăng, đêm đầy ánh sáng, đêm Thiên Chúa viếng thăm con người. Đúng như thông điệp chứa chan hy vọng của tiên tri Isaia: “Một hài nhi đã sinh ra cho chúng ta và một Người Con đã được ban tặng cho chúng ta”.

      Con người không thể lên tới Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã xuống với con người. Chúa xuống trần gian để cho trần gian biết đường về trời. Chúa mặc lấy bản tính con người để cho con người trở nên con cái Chúa: Thánh Gioan viết: “Những ai tin ở Người thì Người ban cho quyền được làm con Thiên Chúa”.

      Giáng Sinh là mùa tặng quà: “Đức Giêsu là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa trao gởi cho con người”. Đến lượt mình, chúng ta cũng hãy trao tặng cho anh em những gì họ cần thiết nhất, với tất cả lòng yêu quí, trân trọng như chúng ta đang dâng tặng cho chính Hài nhi Giêsu. Những kẻ nhỏ bé nhất, những người cô độc nhất, những kẻ chịu nhiều đau khổ nhất lại chính là những con người cần được tặng quà nhất. Chúng ta cần chứng tỏ rằng họ đáng kể đối với chúng ta, rằng tên họ chiếm một vị trí trong quả tim chúng ta. Đó chính là quà tặng mà Hài nhi Giêsu đang mong đợi. Một cách nào đó, khi tặng quà, chúng ta muốn trao ban vô vị lợi, trao ban không tính toán, trao ban trọn vẹn. Mẹ Têrêsa Calcutta định nghĩa: “Kitô hữu là người trao ban chính bản thân mình”.


    34. Món quà vô giá

      Trong sinh hoạt của đời sống thường nhật, mối tương liên giữa con người được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Chẳng hạn như lời nói, thư từ, có khi là một cánh hoa hay là một tặng vật nào đó. Nhưng tất cả dù thể hiện dưới bất cứ hình thức nào nó cũng đều có chung một mục đích là diễn tả ý nghĩa của một sứ điệp mà người gởi muốn tỏ bày.

      Sứ điệp đó có khi là ước muốn hoà bình của nhân loại trên thế giới gói ghém trong một viên gạch được lấy từ bức tường ô nhục Bá linh mà tổng thống Bush của Hoa Kỳ đã tặng Chủ tịch Gorbachov của Liên Xô trong cuộc họp thượng đỉnh ngoài khơi đảo Malta vào dịp Giáng Sinh năm 1989.

      Sứ điệp đó cũng có khi là một lời mời gọi, một xã hội sống xa lìa Thiên Chúa hãy trở về với chính nguồn sự sống như quyển Tân Ước mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tặng nhà lãnh đạo Liên Xô, Chủ tịch Gorbachov, cũng vào mùa Giáng Sinh năm 1989. Quyển Tân Ước có ghi hàng chữ: "Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống". Đó là tất cả những gì mà Đức Thánh Cha và toàn thể thế giới Công giáo gởi đến cho một xã hội đã từ lâu gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.

      Trải qua hai ngàn năm, Thiên Chúa luôn tặng ban món quà vô giá là Người Con rất yêu dấu của Ngài cho xã hội, gia đình và mỗi người chúng ta.

       Đối với xã hội:

      Tiên tri Isaia và Thánh sử Luca cho chúng ta thấy quang cảnh: Một đoàn dân đang lầm bước trong lầm than, bao cái ác đè lên cổ dân, bao cái gậy đập xuống vai họ, bao ngọn roi của bọn hà hiếp, Thiên Chúa đến để bẻ gẫy trong ngày Con Ngài chào đời. Người Con đó đã bao phủ vinh quanh Thiên Chúa trên các mục đồng đang vất vả thức thâu đêm canh giữ đoàn chiên và tất cả lớp dân lao động sống trong bóng tối. Người là thủ lãnh của họ và Người sẽ kiến tạo một xã hội an bình trên nền tảng chính trực, xã hội ấy sẽ tồn tại mãi mãi.

       Đối với gia đình:

      Biết bao gia đình cô đơn, nghèo khó đang mang gánh nặng, chẳng hạn như trường hợp của Đức Mẹ và Thánh cả Giuse, mặc dầu nghèo khó và Đức Mẹ đã tới ngày "mãn nguyệt khai hoa", vẫn sẵng sàng lên đường về cố hương để khai sổ kiểm tra dân số theo lệnh của nhà cầm quyền. Nô đơn đến nỗi cố hương Belem không còn bà con thân thích nào đón nhận. Nghèo túng đến nỗi không có tiền mướn được một chỗ trú đêm, đành sống thân phận của kẻ hành khất, ra đồng tìm nương thân nơi hang xúc vật. Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người trong cái gia đình nghèo khó ấy, Ngài không nổi loạn chống đối, chỉ biết vui sống trong hy sinh như Maria và Giuse, để chia sẻ thân phận nghèo hèn của họ, đưa lại vinh quang Thiên Chúa và bình an cho họ.

       Đối với cá nhân:

      Sống trong một thế giới đầy dẫy những bất công, chỉ lo tìm hưởng thụ mà lãng quyên hoặc xa lìa Thiên Chúa. Sự xuất hiện của Con Thiên Chúa thật là một món quà tuyệt vời; Người là cố vấn kỳ diệu, dạy chúng ta từ bỏ lối sống vô đạo và ham muốn trần tục, thoát khỏi mọi điều bất chính, thanh luyện chúng ta tiết độ, công bình và nhân ái ở đời này, nhờ đó chúng ta là dân riêng của Người. Người là Cha muôn thuở của chúng ta. Người đã tự hiến chịu chết để cứu chuộc chúng ta, ban cho chúng ta niềm hoan hỷ. Chúng ta sẽ hân hoan trước nhan Người, như thiên hạ hoan hỷ trong mùa gặt bội thu.

      Chính vì yêu thương, Thiên Chúa đã tặng ban món quà vô giá ấy cho xã hội, gia đình, và từng người chúng ta.

      Phần chúng ta, là những người của ngàn năm thứ ba, chúng ta có thái độ nào khi chiêm ngưỡng Hài Nhi Giêsu trong hang Belem? Chúng ta có biết đón nhận tặng ân của Thiên Chúa với tâm hồn đơn sơ như các mục đồng năm xưa, hay chúng ta lại trở thành khách bàng quang, thành những người tôi tớ mà khi chủ đến thì chẳng thèm tiếp rước (Jn 11). Để rồi chỉ có đêm lạnh lùng băng giá, chính đêm ấy đã đón tiếp Người đến giữa nhân loại.

      Lạy Chúa, Chúa đã trao ban cho chúng con tất cả, nhưng chúng con biết lấy gì dâng lại cho Chúa và anh em chị em chúng con? Chúng con xin lấy chính Tình Yêu của Con Chúa mà chia sẻ những thống khổ anh chị em chung quanh chúng con đang gặp phải. Xin cho chúng con biết lấy Lời Chúa làm quà tặng cho những ai đang đói khát trong tăm tối tội lỗi, để ánh sáng huy hoàng Giáng Sinh của Chúa làm cho con tim họ bừng cháy trong an bình và hạnh phúc. Ước chi niềm vui Giáng Sinh ở cùng chúng con luôn mãi. Amen.




    PeterLuong




Về Đầu Trang Go down
http://www.clcgk.forumvi.com
PeterLuong
Admin

Admin


Tổng số bài gửi : 668
Ngày tham gia : 17/08/2009

Những bài suy niệm GIÁNG SINH - Page 2 Vide
Bài gửiTiêu đề: Re: Những bài suy niệm GIÁNG SINH   Những bài suy niệm GIÁNG SINH - Page 2 EmptyWed Dec 21, 2011 9:52 pm




    35. Giáng Sinh: Ánh sáng

      Vào một đêm kia, nhà văn Anh John Ruskin nhìn thấy những người thợ thắp đèn đường trong thành phố (lúc đó chưa có điện đường). Họ phải cầm một ngọn đuốc sáng trong tay, chạy đi thắp từng chiếc đèn này qua chiếc đèn khác dọc theo các con đường.

      Trong đêm tối, Ruskin không thấy được người thắp đèn, ông chỉ nhìn thấy bó đuốc của người ấy và một vệt dài ánh sáng người ấy để lại đằng sau mình. Qua hình ảnh đó, cụ già Ruskin đưa ra một nhận định hết sưc thâm thúy : “Đây là một minh họa tuyệt đẹp về người Kitô hữu. Có thể người ta chẳng bao giờ nhận biết người ấy, cũng chẳng bao giờ gặp anh, nhưng họ đều biết anh ta đã đi qua thế giới của họ nhờ vào chuỗi ánh sáng anh để lại phía sau mình”.

      Giáng sinh là một biến cố vô cùng trọng đại, một trang sử mới của nhân loại, đầy huyền nhiệm và linh thánh, nối kết giữa trời và đất, giao hòa giữa Thiên Chúa và loài người. Vì Hài Nhi Giêsu chính là ánh sáng rạng ngời, đã chiếu soi trần gian trong đêm u tối, nguồn ánh sáng của tình yêu, chân lý, và sự sống. Thánh Gioan đã viết : “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người”.

      Thiên Chúa là Đấng quyền năng vô hạn, con người là phận hèn mọn. Thiên Chúa là Đấng sáng tạo muôn loài, con người là vật thụ tạo nhỏ nhoi. Trớ trêu thay, loài hay chết lại liều mình xúc phạm đến Đấng cao cả. Phận tôi đòi lại cả dám ngạo mạn Đấng chí tôn. Vậy mà, con người tội lỗi chưa kịp lên tận trời cao để xin tạ tội, thì Đấng Thánh vô cùng đã vượt lằn ranh vô biên, đích thân xuống với con người, để tha thứ, để cứu chuộc và yêu thương họ hơn cả trước khi con người phạm tội. Đứng trước đại hồng ân cao cả ấy, trí khôn con người chỉ còn biết bàng hoàng sửng sốt. Vâng, chính tình yêu đã làm nên những điều kỳ diệu. Thánh Gioan viết : “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để những ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời”. Hài Nhi Giêsu chính là ánh sáng tình yêu từ trời xuống, đã thắp sáng màn đêm tăm tối của trần gian bằng tình yêu cứu thế. Đúng như lời ngôn sứ Isaia : “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi”.

      Mang thân phận tội lỗi, con người chao đảo trong biển đời u mê lầm lạc, không biết đâu là bến bờ, nói chi đến hiểu biết về Thiên Chúa cao siêu thiện hảo. Chỉ có Hài Nhi Giêsu, ánh sáng rạng ngời chân lý, mới có thể chiếu tỏa ánh sáng thần linh của Người vào tâm trí con người để họ nhận biết Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương. Đó chính là mục đích hàng đầu của Đức Giêsu khi xuống trần gian. Thánh Gioan quả quyết : “Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ; nhưng Con Một là Thiên Chúa, và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết”.

      Từ nguyên thủy, Ngôi Lời đã sống trong tương quan độc nhất với con người. Thật vậy, Người không chỉ là nguồn gốc của muôn loài, mà sự hiện diện của Người giữa chúng sinh còn tạo nên sự hiệp thông trong sự sống thần linh.

      Anh sáng của Hài Nhi Giêsu khi đem xuống trần gian không chỉ xóa tan bóng tối của trí khôn, mà còn chiếu tỏa vào linh hồn con người ánh sáng trọn hảo nhất là chính Thiên Chúa. Người phán : “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo Tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng ban sự sống”.
      Mừng lễ Giáng sinh chính là cảm tạ Hài Nhi Giêsu đã đem ánh sáng huy hoàng của Người đến trong trần gian, trong tâm hồn chúng ta, và trong lòng mọi người.

      Mừng lễ Giáng sinh chính là bắt chước Gioan, làm chứng cho ánh sáng : là chiếc đèn soi đường cho thế gian, là ngọn đuốc chỉ lối cho mọi người đến cùng Thiên Chúa.

      Mừng lễ Giáng sinh chính là thực thi những điều thiện hảo, vì “ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách”.





    PeterLuong




Về Đầu Trang Go down
http://www.clcgk.forumvi.com
PeterLuong
Admin

Admin


Tổng số bài gửi : 668
Ngày tham gia : 17/08/2009

Những bài suy niệm GIÁNG SINH - Page 2 Vide
Bài gửiTiêu đề: Re: Những bài suy niệm GIÁNG SINH   Những bài suy niệm GIÁNG SINH - Page 2 EmptyWed Dec 21, 2011 9:53 pm




    PeterLuong đã viết:
    36. Bài giảng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
    (Lc 2,1-14)

    HÔM NAY ÐẤNG CỨU THẾ
    ÐÃ GIÁNG SINH CHO CHÚNG TA
    ***



      Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã Giáng Sinh cho chúng ta. Lời loan báo Chúa Giáng Sinh vang lên đêm nay, lời loan báo xa xưa và luôn mới mẻ. Lời loan báo vang lên cho những ai đang tỉnh thức, cho những mục đồng tại Bêlem cách đây 2,000 năm, nó vang lên cho những ai đang sống theo đòi hỏi của Mùa Vọng, và một khi đã tỉnh thức trong đợi chờ, sẵn sàng đón nhận sứ điệp vui mừng được hát lên trong Thánh Lễ hôm nay: "Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã Giáng Sinh cho chúng ta".

      Dân Kitô đang tỉnh thức, toàn thể thế giới đang tỉnh thức trong đêm Giáng Sinh này. Trong những ngày này, dường như Giáo Hội không bao giờ ngừng lặp lại rằng:"Hôm nay Ðấng Cứu Thế Giáng Sinh cho chúng ta". Lời rao giảng này có tích chứa sức mạnh không bao giờ cạn để canh tân, nó vang dội trong Ðêm Thánh này một cách mạnh mẽ đặc biệt. Ðây là Giáng Sinh của đại năm thánh, kỷ niệm sống động của hai ngàn năm của Chúa Kitô, kỷ niệm cuộc sinh hạ kỳ diệu, một biến cố đã ghi dấu điểm khởi đầu mới của lịch sử. "Ngày hôm nay Ngôi Lời đã làm người và sống giữa chúng ta".

      Ngày hôm nay trong đêm cực thánh này, thời gian được mở ra đến cõi đời đời, bởi vì Ngài, Lạy Chúa Kitô, Ngài đã từ trời cao mà sinh xuống giữa chúng con. Ngài sinh xuống trần gian từ cung lòng của một người nữ đã được chúc phúc hơn mọi người nữ. Ngài là con của Ðấng Tối Cao, sự thánh thiện của Ngài đã thánh hóa thời gian của chúng con một lần vĩnh viễn luôn mãi, những ngày tháng, những thế kỷ, những ngàn năm. Với sự Giáng Sinh của Ngài, Ngài đã làm cho thời gian trở thành cái hôm nay của ơn cứu rỗi.

      Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã Giáng Sinh cho chúng ta. Ðêm nay chúng ta cử hành mầu nhiệm Bêlem, mầu nhiệm của một đêm đặc biệt cách nào đó nằm trong thời gian vừa đồng thời vượt qua thời gian, trong cung lòng của Ðức Nữ Ðồng Trinh một Con Trẻ đã sinh ra, một máng cỏ đã trở thành cái nôi cho Ðấng là sự sống đời đời.

      Lễ Giáng Sinh là lễ của sự sống, bởi vì Ngài, Lạy Chúa Giêsu, khi đến trong thế gian như một người trong chúng con, Ngài đã chúc phúc cho giờ Ngài đã sinh ra, một giờ nói lên cách tượng trưng cho mầu nhiệm của cuộc sống con người, vừa liên kết những đau khổ của sự sinh hạ với niềm hy vọng, liên kết đau khổ với niềm vui. Tất cả những điều này đã xảy ra tại Bêlem, một người mẹ đã sinh con, một con người đã sinh ra trong trần gian, đó là con người, đó là mầu nhiệm của Bêlem.
      Với niềm cảm xúc trong tâm hồn, tôi nghĩ lại những ngày hành hương năm Thánh của tôi bên Thánh Ðịa, tâm trí tôi trở lại với hang đá nơi tôi được dịp dừng lại cầu nguyện. Tôi hôn kính trong tinh thần, hôn kính miền đất được chúc phúc kia nơi phát sinh niềm vui không bao giờ tàn cho thế giới. Tôi lo âu cho những nơi Thánh và đặc biệt là thành Bêlem nơi mà buồn thay vì hoàn cảnh chính trị khó khăn không thể nào diễn ra Lễ Nghi Giáng Sinh với sự long trọng như mọi khi. Tôi mong muốn sao cho trong đêm nay, những cộng đoàn Kitô tại đó cảm thấy được tình liên đới tràn đầy của toàn thể Giáo Hội đối với họ.

      Thưa anh chị em rất thân mến tại Bêlem,
      Chúng tôi gần gũi với anh chị em với lời cầu nguyện thật sốt sắng. Cùng với anh chị em, chúng tôi rung động vì số phận của toàn vùng Trung Ðông.

      Nguyện xin Thiên Chúa lắng nghe lời chúng ta khẩn cầu. Ước chi từ quảng trường này, trung tâm của thế giới Công Giáo được vang lên một lần nữa với sức mạnh được canh tân, vang lên lời loan báo của các thiên thần, của các mục đồng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời cao và hòa bình dưới thế cho mọi người được Chúa yêu thương".

      Niềm hy vọng của chúng ta không thể nào bị lung lay, cũng như không thể nào thiếu đi sự khâm phục những gì chúng ta đang cử hành. Ngày hôm nay, Ðấng ban hòa bình cho thế gian Giáng Sinh. Hôm nay Ðấng Cứu Thế Giáng Sinh cho chúng ta. Ngôi Lời nằm khóc trong máng cỏ, Ngài được gọi là Giêsu, nghĩa là Thiên Chúa Cứu Rỗi, bởi vì Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi mọi tội lỗi.

      Không phải trong một lâu đài mà Ðấng Cứu Chuộc sinh ra, Ðấng có sứ mạng thiết lập lại Vương Quốc đời đời và phổ quát. Ngài sinh ra trong một chuồng loài vật và sống giữa chúng ta, Ngài thắp lên trong thế giới ngọn lửa tình yêu Thiên Chúa và ngọn lửa này sẽ không bao giờ tắt. Ước chi ngọn lửa này cháy lên trong các tâm hồn như một ngọn lửa tình bác ái hữu hiệu, tình bác ái trở thành sự tiếp đón, nâng đỡ cho biết bao anh chị em bị thử thách bởi sự nghèo cùng và đau khổ.

      Lạy Chúa Giêsu mà chúng con chiêm ngắm trong cảnh nghèo hèn tại Bêlem, xin hãy làm cho chúng con trở nên những chứng nhân của tình yêu Chúa, của tình yêu đã thôi thúc Ngài cởi bỏ vinh quang của Thiên Chúa để sinh ra sống giữa con người và chịu chết vì chúng con, xin Ngài hãy đổ vào chúng con Thánh Thần của Ngài, ngõ hầu ân sủng của mầu nhiệm Nhập Thể khơi dậy nơi mỗi tín hữu sự dấn thân góp sức cách quảng đại hơn, phù hợp hơn với sự sống mới do Bí Tích Rửa Tội trao ban. Xin hãy làm cho ánh sáng của đêm hôm nay sáng hơn ban ngày, chiếu sáng trên tương lai và hướng dẫn những bước tiến của nhân loại trên con đường hòa bình.

      Ðức Thánh Cha kết thúc bài giảng của Ngài với lời nguyện:
      Lạy Chúa, Hoàng Tử của Hòa Bình, Ðấng Cứu Chuộc đã Giáng Sinh vì chúng con, xin hãy đồng hành với Giáo Hội Chúa trên con đường đang mở ra dẫn đưa Giáo Hội bước vào ngàn năm mới.

      (Bài giảng Lễ Giáng Sinh của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II)




    PeterLuong




Về Đầu Trang Go down
http://www.clcgk.forumvi.com
PeterLuong
Admin

Admin
PeterLuong

Giới tính : Nam
Tổng số bài gửi : 668
Điểm NHIỆT TÌNH : 1851
Ngày tham gia : 17/08/2009
Đến từ : Peterluong80@yahoo.com
Job/hobbies : I Love You Jesus

Những bài suy niệm GIÁNG SINH - Page 2 Vide
Bài gửiTiêu đề: Re: Những bài suy niệm GIÁNG SINH   Những bài suy niệm GIÁNG SINH - Page 2 EmptyWed Dec 21, 2011 9:59 pm




    38. Bài thánh ca hát mừng Chúa Giáng sinh
    (Is 9,1-6; Tt 2,11-14; Lc 2,1-14)


    ***


      Lễ Giáng sinh có thể nói được là lễ của âm nhạc. Thật thế, chưa có một cuộc lễ nào trong lịch sử nhân loại đã là nguồn cảm hứng dồi dào cho âm nhạc cho bằng lễ Giáng sinh, và mãi mãi sẽ còn những bài ca bất hủ về lễ Giáng sinh. Kỳ thực, lễ Giáng sinh cũng chính là một bản nhạc bất hủ Thiên Chúa dành cho con người. Nếu như âm nhạc là một sự kết hợp hài hòa giữa âm thanh và sự thinh lặng, thì mầu nhiệm của Thiên Chúa làm người cũng chính là một thứ âm nhạc.

      Thánh Gioan tông đồ, người đã chiêm ngắm mầu nhiệm ấy, người đã sống mầu nhiệm ấy, đã diễn tả bằng một câu nói ngắn gọn như sau: "Và Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể". "Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể" nghĩa là đã hóa thành một người trong chúng ta. Ngài đã sống giữa chúng ta. Ngài đã nói thứ ngôn ngữ vào thời đại của Ngài. Những lời của Ngài đã được ghi chép lại và quảng bá khắp cùng thế giới từ 2,000 năm qua. Lời ấy đã được dịch ra trên 5 ngàn thứ ngôn ngữ và thổ ngữ khác nhau trên khắp thế giới. Và những lời ấy đã trở thành ánh sáng và lương thực cho tất cả nhân loại.

      Thế nhưng trước khi bắt đầu cuộc sống công khai, trước khi mở miệng để lại cho chúng ta những lời vàng ngọc, thì Chúa Giêsu đã sống trong thinh lặng. Thinh lặng của hang đá Bêlem và nhất là thinh lặng trong suốt ba mươi năm tại Nagiarét. Là Lời hằng sống của Thiên Chúa, là Lời đã hóa thành nhục thể, Chúa Giêsu đã bắt đầu cuộc sống bằng sự thinh lặng. Tại sao thế? Thưa, bởi vì Ngài không những nói với chúng ta bằng lời nói, mà Ngài còn nói với chúng ta bằng sự thinh lặng nữa. Ngài nói với chúng ta bằng tất cả cuộc sống của Ngài. Qua sự thinh lặng của cuộc sống ấy, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng Ngài trở thành một người trong nhân loại, Ngài trở thành thân thiết với mọi người và mỗi một người sinh ra trong cõi đời này. Ngài muốn nói với chúng ta rằng sự sống của con người là một giá trị thánh thiêng bất khả nhân nhượng, bất khả xâm phạm. Ngài muốn nói với chúng ta rằng mỗi con người sinh ra trong thế gian này dù xấu xa, thấp hèn, mạt rệp đến đâu cũng đều được đóng ấn tình yêu của Thiên Chúa, cũng đều là hình ảnh của Thiên Chúa, cũng đều là con cái của Thiên Chúa. Phẩm giá cao cả ấy, Chúa Giêsu muốn khẳng định với chúng ta qua cuộc sống thinh lặng, lam lũ, nghèo hèn của Ngài, cũng như qua những kết thân của Ngài với những người bị xã hội đẩy ra bên lề.

      Chúa Giêsu đã sinh ra cách đây hơn 2,000 năm. Sự hiện hữu của Ngài là sự hiện hữu có giới hạn. Giới hạn trong một không gian, một thời đại, giới hạn trong một cách sống. Chúa Giêsu đã không hề là một người chồng, Chúa Giêsu không hề là một người cha trong gia đình. Chúa Giêsu cũng chưa từng sống trong một xã hội thuộc xã hội chủ nghĩa. Thế nhưng, cuộc nhập thể làm người của Ngài không hề chấm dứt với cái chết của Ngài. Như một bản nhạc bất hủ, mầu nhiệm Ngôi Lời hóa thành nhục thể vẫn tiếp tục tái diễn trong lịch sử nhân loại. Lễ Giáng sinh không chỉ đến mỗi năm một lần, nhưng tiếp tục được cử hành trong từng giây phút của cuộc sống chúng ta.

      Thật thế, có lễ Giáng sinh là khi chúng ta để cho Ngài được sinh ra và lớn lên trong tâm hồn chúng ta. Có lễ Giáng sinh, là khi chúng ta để cho Lời của Ngài thấm nhập vào cuộc sống của chúng ta và biến đổi chúng ta. Có lễ Giáng sinh, khi chúng ta tiếp nhận ra ý nghĩa cuộc đời này cho dẫu chúng ta phải trãi qua biết bao nhiêu đắng cay, chua xót trong cuộc sống này. Có lễ Giáng sinh, khi chúng ta nhận ra hình ảnh cao quý của Thiên Chúa trong mỗi một người anh em của chúng ta. Và có lễ Giáng sinh, khi chúng ta làm một nghĩa cử cho anh em của chúng ta. Bài thánh ca hát mừng Chúa Giáng sinh đó không chỉ được cất hát lên mỗi năm một lần, mà phải là khúc hoan ca trong từng phút giây cuộc sống chúng ta.

      Nguyện xin Lời của Thiên Chúa đã hóa thành nhục thể cũng tiếp tục nhập thể trong từng tâm tư, suy nghĩ, hành động và cư xử của chúng ta để mỗi người chúng ta bằng lời nói cũng như bằng chứng tá thinh lặng, chúng ta trở thành lời cho mọi người, chúng ta trở thành âm nhạc cho mọi người.






    PeterLuong




Về Đầu Trang Go down
http://www.clcgk.forumvi.com
PeterLuong
Admin

Admin
PeterLuong

Giới tính : Nam
Tổng số bài gửi : 668
Điểm NHIỆT TÌNH : 1851
Ngày tham gia : 17/08/2009
Đến từ : Peterluong80@yahoo.com
Job/hobbies : I Love You Jesus

Những bài suy niệm GIÁNG SINH - Page 2 Vide
Bài gửiTiêu đề: Re: Những bài suy niệm GIÁNG SINH   Những bài suy niệm GIÁNG SINH - Page 2 EmptyWed Dec 21, 2011 10:01 pm




    37. "Emmanuel, Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta"
    (Is 9,1-6; Tt 2,11-14; Lc 2,1-14)


    ***

      Lễ Noel là lễ của chia sẻ, lễ của bác ái. Chia sẻ không chỉ cơm bánh, gạo tiền cho anh em nghèo khó mà còn chia sẻ tình người cho anh em đang sống chung quanh chúng ta. Vì con người sống cần cơm bánh để lớn lên và cũng rất cần tình thương để tồn tại. Chính vì lẽ đó, mà khi nhập thể làm người Chúa Giêsu đã không chọn sinh ra trong cung điện nguy nga, trong hoàng thân quốc thích. Ngài đã sinh ra trong cơ hàn, trong một gia đình lao động bình thường giữa chúng sinh. Ngài còn đồng hoá mình với những con người nghèo đói cơ hàn, những con người bị ngược đãi, bị bỏ rơi. Chính Ngài đã từng nói rằng: "Hỡi những kẻ được cha Ta chúc phúc hãy vào hưởng Nước Trời là gia nghiệp đã dành sẵn cho các ngươi, vì khi ta đói, ta khát, ta trần truồng, bị bỏ rơi, tù đầy, ngược đãi các ngươi đã cho ăn, cho uống và tiếp đón ân cần". Ngài đã đồng hoá mình với những người khổ đau để con người biết vì Ngài mà biết thương nhau, biết vì Ngài mà phục vụ lẫn nhau, biết vì Ngài mà hy sinh cho nhau, mà đón nhận lẫn nhau trong yêu thương và tha thứ.

      Thế nhưng, giữa cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những con người bị loại trừ, vẫn còn đó những ánh mắt thiếu cảm thông, những cái nhìn tẩy chay của con người dành cho nhau. Xem ra Thiên Chúa vẫn bị khước từ. Ai cũng biết rằng Thiên Chúa là Emanuel đang ở cùng chúng ta, nhưng chúng ta vẫn cố tình loại trừ lẫn nhau, vẫn đang tìm cách xua đuổi anh em của mình một cách bất khoan dung. Ai cũng biết rằng xúc phạm đến nhau là xúc phạm đến Chúa, thế nhưng, có mấy ai đã vì Chúa mà nhịn nhục lẫn nhau, đã vì Chúa mà sống khoan dung, tha thứ cho nhau. Ðôi khi, chính cách đối xử bất khoan dung đó đã khiến anh em không có cơ hội để sửa đổi và làm lại cuộc đời.
      Người ta kể rằng: Trong một xóm đạo nhỏ ở một miền quê hẻo lánh, có một thanh niên nổi tiếng ăn chơi, trộm cắp được người đời đặt cho biệt hiệu: "Hiền bụi đời". Với thành tích, trộm cắp và gây mất trật tự thôn xóm, anh đã bị tập trung cải tạo. Thời gian anh cải tạo là thời gian xóm làng bình an. Người ta cảm thấy hạnh phúc khi không có anh. Cho đến khi nghe tin Hiền bụi đời sắp trở về xóm nhỏ này sau thời gian dài trong trại giam. Người dân xem ra chẳng vui mừng mà còn lo sợ. Lâu lâu người ta lại nghe tiếng búa, tiếng đục cửa của một nhà nào đó đang sửa lại cửa nẻo để chống trộm. Hôm ấy, hắn trở với khuân mặt rạng rỡ của kẻ chuẩn bị bước vào một cuộc sống mới để cải tà quy chính, một cuộc sống lương thiện như bao người khác. Ðối với hắn, dường như mọi thứ đều thay đổi trong mắt hắn. Vui vui, hắn tiến về phía Dì Năm hủ tiếu, nơi đang diễn ra câu chuyện sôi nổi của những người dân trong xóm. Nhưng rồi nụ cười của hắn chưa kịp nở đã vội tắt ngấm. Mọi người im bặt khi hắn tới. Những ánh mắt dè chừng, những nụ cười ngượng gạo, cáo lui. Không lâu sau đó, hắn lại bị bắt vì một vụ cướp của. Trong khẩu cung, hắn khai: "Vì muốn trả thù đời".

      Vâng, Hiền bụi đời đã tiếp tục cuộc sống trộm cắp vì sự loại trừ của đồng loại. Anh không được đón nhận trong cuộc đoàn. Anh bị khước từ bởi lầm lỗi quá khứ. Chính thái độ bất khoan dung của thôn xóm đã tạo nên một Hiền bụi đời để trả thù đời.

      Hôm nay ngày lễ giáng sinh, là dịp để chúng ta nhắc lại với nhau, Con Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta. Ngài đang cần chúng ta yêu thương. Ngài đang cần chúng ta giúp đỡ. Ngài đang cần chúng ta đón nhân. Ngài đang cần chúng ta dành cho Ngài cái nôi đón nhận trong sâu thẳm lòng mình. Ngài đang cần chúng ta dành cho Ngài những cọng rơm hy sinh của nhịn nhục, của bác ái vị tha làm ấm áp lòng Ngài. Ngài đang cần chúng ta dành cho Ngài hơi ấm của tình thương chia sẻ với tấm lòng quảng đại, nhiệt thành như các mục đồng năm xưa.

      Nguyện xin Ðấng Emanuel chúc lành cho những nghĩa cử yêu thương cùa chúng ta. Nguyện xin Ngài đón nhận những hy sinh nhịn nhục và bác ái vị tha của chúng ta dành cho nhau như là dành cho chính Ngài. Và cầu chúc cho mỗi người chúng ta biết đón nhận nhau như là đón nhận Ðấng Emmanuel ở cùng chúng ta để nhờ đó mà chúng ta biết trao cho nhau những nghĩa cử ấm áp tình người và chan hoà tình nhân ái bao dung. Amen.




    PeterLuong




Về Đầu Trang Go down
http://www.clcgk.forumvi.com
PeterLuong
Admin

Admin
PeterLuong

Giới tính : Nam
Tổng số bài gửi : 668
Điểm NHIỆT TÌNH : 1851
Ngày tham gia : 17/08/2009
Đến từ : Peterluong80@yahoo.com
Job/hobbies : I Love You Jesus

Những bài suy niệm GIÁNG SINH - Page 2 Vide
Bài gửiTiêu đề: Re: Những bài suy niệm GIÁNG SINH   Những bài suy niệm GIÁNG SINH - Page 2 EmptyWed Dec 21, 2011 10:02 pm




    CHÚ GIẢI
    1. Chú giải của William Barclay
    ĐƯỜNG VỀ BÊLEM (Lc 2, 1-7)


    ***


      Trong đế quốc Rôma có những cuộc kiểm tra dân số định kỳ nhằm hai mục đích: vừa để đánh thuế, vừa để tìm ra những ai đang ở tuổi làm nghĩa vụ quân sự. Dân Do Thái được miễn nghĩa vụ quân sự, vì thế việc kiểm tra dân số ở xứ Palestine chỉ có mục đích chính là đánh thuế. Về những cuộc kiểm tra dân số, chúng ta có được những thông tin xác đáng về những gì đã được thực hiện tại Ai Cập, và gần như chắc chắn rằng những gì đã được thực hiện tại Ai Cập cũng thực hiện tại Syri và tại Giuđê, một phần của tỉnh Syri. Những thông tin về các cuộc kiểm tra dân số được tìm thấy trong các tài liệu viết trên giấy chỉ thảo phát hiện được trong các lớp cát bụi tại các thành thị, làng mạc Ai Cập hoặc dưới lớp cát sa mạc. Các cuộc kiểm tra dân số như vậy cứ 14 năm diễn ra một lần. Chúng ta có được các tài liệu kiểm tra dân số từ năm 20 SCN đến 270 SCN. Nếu chu kỳ 14 năm được giữ đúng ở Syri thì việc kiểm tra dân số đề cập ở đây hẳn đã diễn ra vào năm thứ 8 TCN, đó chính là năm Chúa Giêsu được sinh ra. Có thể Luca đã có một chút lầm lẫn, Quiriniô chỉ thực sự làm tổng đốc xứ Syri vào năm 6 TCN, nhưng ông đã từng cầm quyền tại các miền đó từ năm 10 TCN đến 7TCN, và việc kể trên đã diễn tiến trong chính thời kỳ thứ nhất này. Các nhà phê bình thường đặt câu hỏi: có phải mọi người đều phải về sinh quán của mình để đăng ký không? Ở đây chúng ta nắm được chính sắc lệnh của nhà nước từ Ai Cập như sau: “Gaius Vibius Maximus, tổng trấn xứ Ai Cập truyền lệnh: Xét rằng đã đến kỳ làm sổ từng nhà, nên cần bắt buộc hết thảy những ai, đã vì bất cứ lý do gì mà hiện đang cư trú ngoài địa phận mình, phải trở về quê nhà, để có thể thi hành lệnh kiểm tra dân số theo quy định, và cũng để có thể chăm lo việc cày cấy đất ruộng mình”. Nếu đó là trường hợp tại Ai Cập thì cũng chính là trường hợp tại Giuđê là nơi còn giữ kỹ những gia phả dòng tộc và đàn ông phải về bản doanh của bộ tộc mình. Đây thêm một bằng cớ giúp ta hiểu biết hơn về sự chính xác của Tân Ước.

      Con đường từ Nagiarét tới Bêlem dài 128 dặm, những tiện nghi cho khách trọ rất sơ sài. Quán trọ bên phương đông thời bấy giờ giống như từng dãy chuồng ngựa có cửa mở ra một cái sân chung. Mỗi khách trọ tự liệu thức ăn cho mình, chủ quán chỉ cung cấp đồ ăn cho súc vật và một bếp lửa để nấu nướng. Có đông người quá nên không còn chỗ cho Giuse và Maria, thế nên con trai của Maria đã sinh ra nơi khoảng sân chung đó. Khăn bọc hài nhi là một cái tã. Trước tiên người ta bọc hài nhi trong tấm vải vuông rồi quấn băng dài chung quanh mình nhiều vòng. Chữ được dịch là máng cỏ, nơi để súc vật ăn, có thể đó là một chuồng bò hoặc một máng cỏ. Việc quán trọ không còn chỗ tượng trưng cho những gì xảy ra cho Chúa Giêsu. Chỉ một nơi có chỗ cho Chúa Giêsu là thập giá. Ngài tìm một lối vào trong những tấm lòng chật chội của loài người mà không tìm được, và Ngài vẫn cứ tiếp tục tìm kiếm, mặc dù vẫn cứ bị chối bỏ.

      MỤC ĐỒNG VÀ THIÊN SỨ (Lc 2, 8-20)
      Một điều lạ lùng là câu chuyện cho chúng ta biết bao lời báo tin đầu tiên của Chúa được gửi đến cho các người chăn chiên. Vào thời bấy giờ, giới mục đồng bị những người chính thống coi khinh. Họ không có đủ khả năng để giữ trọn các chi tiết của bộ luật nghi lễ, họ không thể giữ đúng các nghi thức rửa tay tỉ mỉ và các luật lệ khác. Họ quá bận bịu săn sóc bầy chiên, vì thế, giới chính thống coi họ rất thấp kém. Sứ điệp của Chúa trước tiên đã đến với họ là những người đơn sơ nơi đồng ruộng. Nhưng nhóm mục đồng này có lẽ là những mục đồng đặc biệt. Trong Đền Thờ, sáng và chiều đều có một con chiên không tì vết làm của lễ dâng lên Chúa. Để lúc nào cũng sẵn có của lễ toàn vẹn và không tì vết ấy, các quan chức cai quản Đền Thờ nuôi riêng những bầy chiên của họ, và các bầy chiên này được chăn ở gần Bêlem. Cho nên chúng ta có thể tin là nhóm mục đồng đó đang coi giữ những bầy chiên dành làm của lễ trong Đền Thờ. Thật ý nghĩa biết bao khi nhóm người coi sóc bầy chiên của Đền Thờ lại là những người đầu tiên được ngắm xem chiên của Thiên Chúa là Đấng xóa tội lỗi thế gian.

      Chúng ta đã biết khi một bé trai được sinh ra thì các nhạc sĩ địa phương tụ tập lại nhà để chúc mừng bằng một khúc nhạc đơn sơ. Chúa Giêsu đã sinh trong một chuồng bò ở Bêlem, vì thế chi tiết đã không được thực hiện. Thật vô cùng ý nghĩa khi đoàn ca sĩ trên trời thay thế các ca sĩ dưới đất và các thiên sứ đã hát những bản ca ngợi Chúa Giêsu là những bản nhạc mà các ca sĩ trần gian không hát nổi.

      Qua những lời Kinh Thánh này, chúng ta phải suy tưởng đến vẻ đơn sơ thanh bạch trong sự giáng sinh của Con Thiên Chúa. Chúng ta dễ nghĩ rằng nếu Con Thiên Chúa ra đời, thì chắc Ngài sẽ sinh ra trong một đền đài hay một dinh thự. Ngày xưa, ở Châu Âu, có một ông vua thường khiến triều thần lo ngại vì ông hay cải trang để trà trộn vào dân chúng. Khi quần thần yêu cầu ông đừng làm thế vì lý do an ninh, thì ông trả lời “Trẫm không thể trị dân nếu trẫm không biết nhân dân ta có một Thiên Chúa hiểu thấu đời sống chúng ta, vì Ngài đã sống cuộc đời như chúng ta, không đòi hỏi gì khác hơn một đời sống bình thường”.





    PeterLuong




Về Đầu Trang Go down
http://www.clcgk.forumvi.com
PeterLuong
Admin

Admin
PeterLuong

Giới tính : Nam
Tổng số bài gửi : 668
Điểm NHIỆT TÌNH : 1851
Ngày tham gia : 17/08/2009
Đến từ : Peterluong80@yahoo.com
Job/hobbies : I Love You Jesus

Những bài suy niệm GIÁNG SINH - Page 2 Vide
Bài gửiTiêu đề: Re: Những bài suy niệm GIÁNG SINH   Những bài suy niệm GIÁNG SINH - Page 2 EmptyWed Dec 21, 2011 10:03 pm




     2. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
    SINH HẠ, CẮT BÌ VÀ ĐẶT TÊN
    CHO TRẺ GIÊSU (Lc 2, 1-20)


    ***

      Từ đây bản văn sẽ phá vỡ tiến trình song song. Thực vậy, có hai khác biệt lớn lao giữa cảnh này và cảnh trước. Đối với Người Con của Đức Maria, Luca nêu bật trước hết cảnh sinh ra, trong khi việc cắt bì và đặt tên ông chỉ nhắc đến rất vắn tắt (c.21), điều này ngược với trường hợp của Gioan. Phần khác, một mặc khải đi liền theo sau việc cắt bì của vị tiền hô; nhưng việc tuyên sấm của ông Giacaria không có tầm vóc rộng lớn như cảnh sinh ra của Chúa Giêsu được gọi là Phúc Âm, Tin Mừng (c.10). Và nhất là, đối với Chúa Giêsu, cảnh mặc khải theo nghĩa chặt sẽ được chuyển đến cảnh tiếp theo trong Đền Thờ.

      Các câu 1-7 trình bày việc kiểm tra dân số, hành trình của cha mẹ rồi việc sinh con trai đầu lòng. Sắc chỉ của Xêda Augustô gây khó khăn về phương diện lịch sử. Đúng là Quirinô đã cho tiến hành kiểm tra dân số xứ Giuđêa khi tỉnh này thuộc quyền cai trị trực tiếp của Rôma; điều đó đã gây ra cuộc nổi loạn của Giuđa người Galilê (Cv 5,37: có Giuđa người Galilê nổi lên vào thời kiểm tra dân số, và lôi cuốn dân đi với mình; cả ông này cũng bị diệt, và tất cả những người theo ông ta đều bị tan tác). Nhưng vào khoảng năm 6 hoặc 7 SCN, lúc đó Chúa Giêsu đã chừng mười tuổi rồi –Người sinh ra dưới triều Hêrôđê (Lc 1,5; Mt 2,1), ông này băng hà vào năm 4 TCN. Như vậy Luca đã lầm khi, trong bài khởi đầu long trọng này, muốn đăng ký Chúa Giêsu vào lịch sử thế giới– ông sẽ làm lại một cách đầy đủ hơn ở 3, 1-2 và cũng tỏ bày cho thấy Thiên Chúa sử dụng sắc chỉ của Xêda. Trong sách Công Vụ, Thiên Chúa còn sử dụng các luật lệ La Mã để dẫn dắt Phaolô đến rao giảng Tin Mừng ở Rôma… nhất là điều đó đã là một cái cớ cho cuộc hành trình, là một cái cớ bởi vì những cuộc kiểm tra như thế luôn luôn làm ở nơi thường trú chứ không làm ở nguyên quán.

      Thực ra nhờ truyền thống (x. Mt 2,1) Luca biết rằng con trẻ sinh ra ở Bêlem, thành của Đavít, địa điểm này cho phép nhấn mạnh một lần nữa rằng Chúa Giêsu là con cháu (c.4) Đavít. Tuy nhiên, Luca không trích dẫn sấm ngôn của Mk 5,1 (x. Mt 2,6); thực vậy rất hiếm thấy những trích dẫn rõ ràng ở Luca 1-2. Thực vậy, đích điểm của cuộc hành trình không phải chỉ là Bêlem mà chính là một máng cỏ trong thành này. Phòng trọ chật chội đến nỗi phải đặt em bé sơ sinh nằm trong máng cỏ, diễn ngữ này được dùng tới ba lần (c. 7.12.16) và điều ấy muốn nói rằng đó là kết quả của sáng kiến của Thiên Chúa. Mà có nơi nào ý nghĩa hơn đối với các mục tử cho bằng máng cỏ? Như vậy là chúng ta được quy hướng tới mấy chú mục tử này.

      Luca lại dùng một lần nữa công thức thần học: “(những) ngày bà phải sinh con đã tới (hoàn tất)”, ông nói đến con trai đầu lòng để chuẩn bị cho việc dâng con trong Đền Thờ (2,23).

      Bây giờ đến cảnh mặc khải cho các mục tử (cc. 8-14). Tại sao những người làm một nghề như thế lại được đón nhận mặc khải này? Hẳn là có một liên hệ văn chương giữa thành Bêlem và đề tài mục tử: Khi ấy Đavít chăn đàn súc vật của cha ông ở Bêlem (1Sm 16,11; 17,15), nhưng Luca không nói rõ về chuyện ấy, điều ông quan tâm nhiều hơn đó là các mục tử ở Palestin vẫn bị mang tiếng xấu, người ta thường coi họ là những kẻ bất lương và trộm cắp. Sách Tamud Babylon đã xếp họ vào một nhóm những người bị coi là kẻ tội lỗi: “Những mục tử và những người thu thuế thì khó mà sám hối được”. Những người bị khinh dể ở cấp bậc thấp nhất trong xã hội lại là những người đầu tiên được nói đến nhờ việc đản sinh của một em bé có mẹ là một người khiêm hạ (1,48) và sẽ mang Tin Mừng đến cho những người nghèo (4,18). “Tác động hướng về máng cỏ là dấu chỉ cho những người chăn chiên tội lỗi nhận ra được Đấng Cứu Tinh đã đến (B. Trémel); con trẻ sơ sinh đã là người sẽ đón tiếp những kẻ tội lỗi và sẽ ăn uống đồng bàn với họ (15,2)

      Mặc khải đích thực (cc. 9-12) có nhiều yếu tố nhắc nhở những trình thuật về việc báo tin cho ông Giacaria và cho Đức Maria, chỉ có các vấn nạn là được bỏ đi. Sứ thần của Thiên Chúa thay thế cho thiên sứ Gabriel, việc đản sinh Chúa Giêsu được gọi là Tin Mừng, việc ấy sẽ tạo ra một niềm vui lớn: Ba tước hiệu được dành cho trẻ sơ sinh là: Hôm nay, Đấng Cứu Tinh là Đấng Kitô Đức Chúa đã sinh ra cho các ngươi, là những người nghèo và dân tộc bé nhỏ. Ba tước hiệu đều đến từ lời tuyên xưng niềm phục sinh của Giáo Hội, hai tước hiệu cuối ở môi trường Do Thái, tước hiệu thứ nhất ở môi trường lương dân để đi đôi với việc tôn thờ hoàng đế Xêdarê như vị cứu tinh. Như vậy, lời loan giảng của Giáo Hội mà Phêrô và Phaolô sẽ thực hiện sau này đã được mặc khải cho các mục tử.

      Dấu chỉ –có ở đây như ở trong hai trình thuật báo tin, nhưng các người chăn chiên không đòi hỏi– thì rất trái ngược với tước hiệu Kitô học: điều đó cho phép những ai tìm dấu chỉ ấy sẽ gặp Hài Nhi mới sinh được bọc khăn, Hài Nhi ấy được đặt trong một máng cỏ chứ không phải là trong một chiếc nôi ở một đền đài đế vương nào đó. Độc giả có thể ngạc nhiên trước sự kiện dấu chỉ không có gì kỳ diệu. Trong khi Israel có thể chờ đợi Đấng Mêsia sinh ra với những dấu chỉ gây ngạc nhiên (x. ngôi sao dẫn đường các đạo sĩ ở Mt 2,2-9), dấu chỉ ở đây thích hợp với Đấng sẽ là vị Mêsia khiêm tốn và đau khổ của những kẻ nghèo, dấu chỉ ấy đặc biệt am hợp với những người chăn chiên.

      Bấy giờ có tiếng khen ngợi của một nhóm đông vô kể của các thiên sứ (cc. 13-14) hợp với vị thiên sứ vừa tuyên bố Tin Mừng; bài thánh thi ngắn gọn mời các mục tử và các độc giả nhận ra quyền năng của Thiên Chúa, Đấng, qua việc đản sinh của Người Con Đức Maria, sẽ đem lại bình an, yên ổn, hòa hợp và thịnh vượng cho dân là đối tượng của lòng nhân hậu Ngài. Không đặt vấn đề thiện tâm mà con người có hay không để đón nhận hồng ân của Thiên Chúa.

      Cảnh diễn ra trong các câu 8-14 tập trung vào những vị sứ giả từ trời: loan báo Tin Mừng và lời ngợi khen có tính cách phụng vụ. Tin Mừng từ Thiên Chúa được thông báo cho các mục tử trước khi họ loan truyền cho dân. Như ở phần trước, những chi tiết hữu hình mắt thấy được bị hạn chế tối đa.

      Cho tới lúc đó, các mục tử ở trong tư thế thụ động; họ không còn thụ động nữa trong cảnh tiếp theo, nơi đó thuật lại ba phản ứng (cc. 15-20): phản ứng của các mục tử, phản ứng của những người nghe họ kể lại và cuối cùng là phản ứng của Đức Maria. Các mục tử thấy những sự việc như thiên thần đã loan báo và loan truyền lại sứ điệp của thiên thần; khi nghe họ dân chúng ngạc nhiên – như bà con của ông Giacaria (1,63), như cha mẹ của Chúa Giêsu (2,23). Câu 20 còn nói rõ hơn về các mục tử: sau khi từ máng cỏ trở về, họ làm nhiệm vụ của các thiên sứ là ngợi khen và tôn vinh Thiên Chúa (xcc. 13-14). Về phần Đức Maria, Người nổi bật vì thái độ đón nhận (câu 19 trong đó dội lại câu 51 chương 2). Từ sứ thần Gabriel, Người đã biết rằng con mình sẽ là Đấng Mêsia thuộc dòng tộc Đavít, là Con Thiên Chúa và là Đức Chúa; từ các mục tử đã được sứ thần loan báo, Người biết rằng con mình là Đấng Cứu Tinh. Nhưng một cách cụ thể các tước hiệu này có ý nghĩa gì? Nếu Đức Maria suy nghĩ về tất cả những điều đó trong lòng, chính là vì Người chưa hiểu hết ý nghĩa như chương 2 câu 50 xác minh.

      Câu 20 là chuyển tiếp qua cảnh sau: như đối với người con của ông Giacaria và bà Êlisabét, đặt tên dường như quan trọng hơn nghi thức cắt bì; cả hai trường hợp đều có sự vâng theo lời sứ thần Gabriel. Cảnh đặt tên là đối tượng của một khai triển dài đối với vị tiền hô, nhưng ở đây lại không phải như vậy.





    PeterLuong




Về Đầu Trang Go down
http://www.clcgk.forumvi.com
PeterLuong
Admin

Admin
PeterLuong

Giới tính : Nam
Tổng số bài gửi : 668
Điểm NHIỆT TÌNH : 1851
Ngày tham gia : 17/08/2009
Đến từ : Peterluong80@yahoo.com
Job/hobbies : I Love You Jesus

Những bài suy niệm GIÁNG SINH - Page 2 Vide
Bài gửiTiêu đề: Re: Những bài suy niệm GIÁNG SINH   Những bài suy niệm GIÁNG SINH - Page 2 EmptyWed Dec 21, 2011 10:05 pm




     3. Chú giải của Fiches Dominicales
    ĐỨC GIÊSU SINH RA Ở BÊLEM
    VÀ THIÊN THẦN BÁO TIN CHO CÁC MỤC ĐỒNG
    (Lc 2,1-14)


    ***

      VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
      1. Bóng tối của một sự ra đời...
      Trong phần mở đầu của tác phẩm mình, thánh sử Luca không muốn làm công việc của một sử gia - lẽ tất nhiên không theo nghĩa hiện đại của từ ấy - nhưng như một nhà thần học đặc biệt nhạy cảm với lịch sử cứu độ.

      Thánh sử muốn đưa việc Đức Giêsu sinh ra vào lịch sử chung, bằng cách nối kết sự giáng sinh của Người với "sắc lệnh của hoàng đế Augustô ra lệnh kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ." J. Potin suy diễn thêm: "ở Syria việc kiểm tra dân số thường diễn ra 12 năm một lần. Flavius Joseph cho hay, vào năm thứ 6 của kỷ nguyên chúng ta, dưới thời Quirinius có cuộc kiểm tra dân số điều này trong hợp với cuộc kiểm tra dân số Luca đã đề cập đến. Như vậy, năm thứ sáu trước kỷ nguyên chúng ta, rất có thể là năm Đức Giêsu sinh ra" ("Đức Giêsu, lịch sử có thật", Centurion tr. 93).
      - Vì muốn nhấn mạnh sự nối tiếp của lịch sử cứu độ và lịch sử ấy hoàn tất với Đức Kitô, nên Luca đề cập đến dòng dõi Đavid của Đức Giêsu:

      Bỏ Nadarét ở Galilê, Giuse đi về Bêlem "thành của Đavid" để khai hộ khẩu, bởi lẽ ông thuộc nhà và dòng dôi Đaviđ”.

      Chính tại Bêlem “ Maria vợ ông đang có thai” sẽ hạ sinh con trẻ. Biến cố được diễn tả cách giản dị lạ thường. Trong chuyến đi về Bêlem, tuy đóng vai trò quyết định, nhưng Giuse tự xoá mờ trước Maria. Mẹ mới là người quan trọng: Ngài sinh con đầu lòng, bọc trong tã và đặt nằm trong máng cỏ " ( cảnh này gợi lên cảnh đặt vào mồ: Lc 23,53 họ lấy khăn liệm bọc Ngài và đặt vào mồ), vì không có chỗ cho họ trong "phòng tập thể”: (sau này chúng ta sẽ gặp lại "phòng tập thể" trong Luca, đó là phòng tiệc ly: Lc 22,11).

      2. Sẽ soi sáng mọi đêm tối".
      Trái với sự thanh vắng, bóng tối và sự nghèo nàn của cảnh ra đời, này đây "trong vùng lân cận”, đêm tối rạng ngời và tiếng hát vang dội, nói lên ý nghĩa của biến cố vừa mới hoàn thành: trời và đất gặp nhau, những người đầu tiên được lãnh nhận ơn mạc khải là những người hèn mọn nhất của thời đại: các mục đồng, một lớp người trong xã hội bị khinh chê nhất, được xếp với hạng người tội lỗi và bọn thu thuế. H.Cousin giải thích: "ở Palestin, chăn chiên là lớp người mang tiếng xấu, thường được người ta coi là bọn bất lương và trộm cắp. Sách Talmud ở Babylone xếp họ vào hạng người đáng chú ý: dân mục tử, bọn thu thuế, thật khó mà ăn năn trở lại". những người bị khinh chê và được xếp vào bậc thang cuối cùng của xã hội lại là những người đầu tiên được đoái đến bởi Đấng vừa sinh ra, con của một người mẹ "hèn hạ " (Lc 1,48: phận nữ tỳ hèn mọn); chính Ngài sẽ đem Tin Mừng cho người nghèo khó (4, 18). Đấng vừa sinh ra là Đấng để cho người tội lỗi đến với mình và đồng bàn với họ " (15, 2) ("Tin Mừng thánh Luca", Centurion tr. 38-39).
      - Sứ điệp mà "các thiên thần của Chúa" mang đến cho họ là một "Tin Mừng" (Evangile), một niềm vui lớn. Tin vui ấy là tin vui cho "Toàn dân”. Sứ điệp ấy liên can tới sự giáng sinh của một hài nhi, nơi Người các tước hiệu: "Đấng cứu độ", "Đấng Mêsia ", "Chúa " đạt được sự viên mãn bởi lẽ chính Ngài là sự mạc khải sống động về lòng nhân từ của Thiên Chúa. "Đấng cứu độ ", "Đấng Mêsia” (Kitô), "Chúa”, ba tước vị phát xuất từ việc Giáo Hội tuyên xưng đức tin phục sinh, mà chúng ta sẽ thấy trên môi miệng của Phêrô (Cv 2,36...) và của Phaolô (Cv 13,33...).
      - "dấu chỉ" cho các mục tử vùng Bêlem: một trẻ sơ sinh, “bọc tã nằm trong máng có", để nói vòi những ai biết đón nhận rằng Thiên Chúa ban ơn cứu độ như người đã hứa theo cách thế không ai ngờ tới. R.Meynet dẫn giải: “ Kẻ trước hết sẽ nên sau hết. Con người được coi là Đấng Cứu độ, là Vua, là Đấng Mêsia và được thừa kế ngai vàng Đavid tổ phụ Người, lại nằm trong máng cỏ của súc vật, bọc tã, nằm trong cái nôi tạm bợ, cũng như sau này, Người sẽ được bọc trong khăn liệm và nằm trong ngôi mộ không phải dành cho mình. Dù mâu thuẫn, đó vẫn là dấu chỉ cho các mục tử và cho Kitô hữu của mọi thời. Dấu chứng cho sự cao sang của Thiên Chúa lại là sự nhỏ bé, và cho quyền năng của Người lại là sự hèn yếu ("Tin Mừng theo thánh Gioan: phân tích tu từ học", Cerf, tr. 36).
      - Lời tạ ơn “đột nhiên" vang lên. Trên trời, biến cố được diễn tả với chiều kích rộng lớn và trong bầu khí trang trọng. Cùng lúc, dưới đất, là cuộc tổng kiểm tra dân số của Augustô: với thiên sứ, một cơ binh trên trời đông vô số ngợi khen Thiên Chúa rằng: Sáng danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương. Cả trời đất đều mừng vui: kỷ nguyên cứu rỗi đã mở đầu Thiên Chúa, Đấng lấy việc ban hồng ân làm vinh quang, sẽ đổ xuống trên dân Ngài sự "bình an" mà Ngài đã hứa trong ngày cứu độ: không phải sự đảm bảo vật chất của nền "hoà bình Rô-ma" Mà Con người chờ đợi ở Augustô, nhưng là sự tràn đầy sự sống là chỉ mình Ngài có thể ban cho. Trong đêm tối, trở về với cảnh thanh vắng, từ cánh đồng quê Bêlem, mục tử lên đường để xem sự việc đã xảy ra? Họ tìm thấy Maria, Giuse và Hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Sau đó, họ trở về và ca ngợi tạ ơn về những gì họ đã thấy và đã nghe, họ là gương mẫu cho các nhà truyền giáo mà thánh Luca sẽ trình bày trong cuốn sách thứ hai: Sách Công Vụ Tông Đồ.

      BÀI ĐỌC THÊM
      1. Từ Bêlem đến Phục Sinh”
      (A.George, trong "Assemblées du Seigneur", số 10, tr. 6f' 67).
      "Thánh Luca muốn diễn tả một sự kiện diễn ra tại Bêlem thời César Augustô mà ông đã nghe kể và hiểu theo truyền thống của Giáo Hội. Ông chú ý đến sự kiện này như một biến cố rõ ràng, xảy ra ở một nơi nhất định, nhưng ông tỏ ra không mấy chú ý đến các chi tiết. Điều đáng ông lưu ý trong sự kiện này là ý nghĩa của lịch sở cứu độ. Đó chính là tính hiện tại của ơn cứu độ. Nó diễn ra trong suốt cuộc đời của Đức Giêsu, từ Bêlem đến Phục sinh. Khi ông định nghĩa Đức Giêsu như Đấng cứu chuộc, như Kitô Đức Chúa, ông không muốn nói những gì người ta đã hiểu về Đức Giêsu ngày Ngài sinh ra, nhưng Ngài vẫn là như thế cho đến muôn đời. Khi ông kể lại câu chuyện các mục tử, ông nghĩ đến tất cả những ai đã rao truyền sứ điệp thời các tông đồ, nghĩ đến tất cả những ai đã đón nhận sứ điệp ấy. Vì thế ngày nay, câu chuyện đó liên quan đến chúng ta. Đối với ông, mầu nhiệm kết hợp cách bất khả phân ly với lịch sử. Ông tin rằng ơn cứu rỗi đã được ban trong biến cố Đức Giêsu. Và vì thế ông đã viết cuốn sách này.

      Đức tin của ông, cũng như của chúng ta, không chỉ dựa trên câu chuyện ấy. Đức tin ấy phát xuất từ việc biết Đức Giêsu trong tất cả mầu nhiệm của Ngài, trong nhân cách huyền nhiệm được mặc khải dần dà, trong sứ điệp cứu rỗi muôn đời, trong việc Ngài luôn toả sáng. Bởi lẽ sự mặc khải về Đức Giêsu là một sự kiện duy nhất đã xảy ra trong thời Đức Giêsu và kéo dài cho đến chúng ta, thời của Giáo Hội. Mỗi người chúng ta đều được mời gọi đưa ra một chọn lựa trước sự kiện này. Quyết định như thế thật khó khăn vì nó đòi chúng ta phải hoàn toàn dấn thân. Sự quyết định đó cũng không bao giờ hoàn tất, bởi vì Đức Kitô vượt xa hơn bất kỳ ai khác, nên sự hiểu biết về Người là một khám phá của tất cả cuộc đời.

      Câu chuyện giáng sinh ở Bêlem chỉ có ý nghĩa đối với những ai đã nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu độ, là Kitô Đức Chúa. Sự Giáng Sinh làm lộ rõ điều nghịch lý nơi con người giàu: sự nghèo hèn song hành với vinh quang. Điều nghịch lý này làm cho người Do Thái thời Ngài cũng như mọi người chưng hửng: một bên là sự trần trụi của một Hài nhi yếu ớt, từ lúc mới sinh đã phải tùng phục sắc lệnh của một hoàng đế ngoại giáo, và trong cảnh xa nhà, chỉ được một người mẹ tứ cố vô thân, một bác thợ mộc và mấy người chăn chiên tiếp đón... bên kia là sự xuất hiện của cả một đạo binh ngời sáng trên trời, vinh quang Thiên Chúa tỏ hiện và lời tung hô Đấng Cứu thế, Kitô Đức Chúa. Sự gặp nhau giữa nỗi khốn cùng của loài người và vinh quang của Thiên Chúa chính là sự kiện Thiên Chúa đến trong lịch sử chúng ta: một sự hiệp thông với cả nhân loại, để dấy lên niềm hy vọng, một sự hiện diện trong tình yêu cho đến muôn đời.

      Cuộc gặp gỡ này không chỉ diễn ra trong mầu nhiệm của đêm Giáng Sinh mà còn kéo dài trong tất cả cuộc đời Đức Giêsu, từ những phép lạ và thử thách của cuộc sống trần gian cho đến vinh quang phục sinh, toàn thắng mà thế gian không biết đến. Suốt dòng thời gian, sự hiện diện của Thiên Chúa giữa nhân loại chính là Giáo Hội. Giáo Hội này tuy còn đầy dấy sự yếu hèn của chúng ta nhưng lại là nguồn mạch ơn cứu độ muôn đời của Thiên Chúa. Trong Giáo Hội, trong chúng ta, cũng như trong đêm Giáng Sinh và Phục sinh, "chính trong sự yếu hèn mà quyền năng được toả lan " ( 2 C r 12, 9 ) .
      2. "Đã 2000 năm"
      (Mgr. F.Favreau trong "Mùa Vọng năm 2000", Documents " épiscopat, số 14, tháng 10, 1 996).
      (Tạm dịch)
      Hai ngàn năm đã trôi qua,
      Giêsu, Chúa đã sinh ra giữa đời.
      Kỷ niệm bất diệt đầy vơi,
      Mừng cùng Giáo Hôi khắp nơi, vũ hoàn.
      Niềm vui cảm tạ tri ân,
      Chúa đã thăm viếng cõi trần chúng con.
      Lời xưa Chúa hứa vẫn còn:
      Ở cùng nhân loại chúng con mỗi ngày.
      Chúng con cảm nghiệm giờ đây,
      Chúa đang hiện diện mọi ngày đời con
      Ban ơn trông cậy trường tồn,
      Một niềm phó thác, con luôn vững bền.
      Trên vùng Đất Hứa nửa đêm,
      Chúa đến mặc khải êm đềm tình Cha.
      Chúa yêu ta, chết vì ta.
      Chúa ơi! Xin dẫn con và anh em
      Vào trong nguồn suối êm đềm
      Của tình yêu Chúa ở trên cõi đời.
      Tình Cha bí mật tuyệt vời
      Chính là ơn gọi con nơi thế trần.
      Tibêriat dừng chân,
      Tám mối phúc, Chúa ân cần dạy con.
      Biến con thành sử giả luôn
      Loan truyền mối phúc cho muôn muôn người.
      Thánh Thần xin gởi đầy vơi,
      Trên Hội Thánh Chúa ở nơi thế trần:
      Ngài ban sức mạnh hồng ân
      Giúp con lướt thắng tinh thần cứng tin.
      Dắt con vững bước đăng trình,
      Anh em, đến với mối tình tri âm.
      Biến con thành thợ Phúc Âm.

      NGÔI LỜI ĐÃ TRỞ NÊN NGƯỜI PHÀM
      VÀ CƯ NGỤ GIỮA CHÚNG TA
      (Ga 1,1-18)
      VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
      1. Lời Tựa là một Thánh Thi.
      Matthêu mở đầu tin Mừng bằng "Gia phả của Đức Giêsu Kitô, Con vua Đavít, con Apraham”. Luca thì bắt đầu "trình thuật về những biến cố đã diễn ra giữa chúng ta " (1,1) bằng cách trình bày gẫy gọn một ít giai thoại về đời thơ ấu của Đức Giêsu: những giai thoại này vừa giới thiệu vừa tiên báo về cuộc đời Chúa. Máccô (như ta đã đọc ở Chúa nhật thứ II Mùa Vọng) đặt cho tác phẩm của Ông một tựa đề đầy ý nghĩa: “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa”.

      Về phần Gioan, ông bắt đầu Tin Mừng bằng một Lời Tựa dưới dạng Thánh Thi, mà nhiều nhà chú giải nghĩ rằng thánh thi này đã được hát trong cộng đoàn của Gioan, trước khi được đặt vào đầu cuốn Tin Mừng. Cũng giống như khúc mở đầu một bản hoà tấu - hay đúng hơn như đoạn kết, thánh thi này nối kết các đề tài thành một bản tóm tắt đầy sức mạnh.

      Alain Marchadour giải thích: "Để mở đầu cho Tin Mừng của mình. Gioan đã chọn một thánh thi. Lời mở đầu này như khúc dạo đầu một bản nhạc, lần lượt kể ra những đề tài lớn của Tin Mừng và nói đến nguồn gốc cũng như nguyên thủy của Đức Giêsu mà Tin Mừng sẽ tường thuật cuộc đời của Ngài khi Ngài sống giữa loài người. Lúc khởi đầu Ngài là Ngôi Lời, thường tình thân thiết với Thiên Chúa đến nỗi thi sĩ quả quyết rằng ngôi là Thiên Chúa. Vai trò của người vượt khỏi ranh giới dân Israel bởi vì Người là Đấng tạo thành, là Sự Sống, là Anh Sáng cho mọi người sinh ra nơi trần thế. Biến cố nhập thể đánh dấu việc Ngôi Lời xâm nhập lịch sử, cuộc gặp gở định mệnh với loài người và với dân Do Thái, người thì từ chối, kẻ thì đón nhận. Những người đón nhận là cộng đoàn Kitô hữu. Thánh thi này long trọng kể ra cuộc hành trình của Ngôi Lời, từ lúc ở với Thiên Chúa (câu 1-2), rồi đến giũa loài người (3-5), chọn dân Israel (9-11) rồi nhập thể (14) cho đến ngày trở lại, "Người là Đấng hằng ở nơi cung lòng Thiên Chúa”, " ("L Evangile de Jean", Centurion 1 992, trang 31).

      2. Ca ngợi cuộc hành trình của Ngôi Lời Thiên Chúa
      Chúng ta hãy theo dõi sự triển khai từng phần một.
      Nguồn gốc bí nhiệm của Đức Giêsu, Ngôi Lời sáng tạo:
      + Hai từ đầu tiên “Khởi đầu" liên kết việc Đức Giêsu xuống trần với những chương đầu sách Sáng Thế, như thế phải đọc về Đức Giêsu từ giây phút đầu của mạc khải: xuyên suốt Tin Mừng, Người được giới thiệu "như điểm hoàn tất của tất cả mạc khải, như Đấng mạc khải tối cao, như ân huệ tối hậu của Thiên Chúa, như con đường duy nhất dẫn tới ơn cứu độ, và như khuôn mặt của Thiên Chúa giữa loài người" (A.Marchadour, Sđd, trang 34).
      + Trước hết, thánh thi nói đến "Ngôi Lời Thiên Chúa" (danh hiệu của riêng Gioan trong Tân ước) trong hiện hữu vĩnh cửu, tình nghĩa thiết muôn đời với Chúa Cha nhưng khác biệt với Cha: và thiên tính của Người: "Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa”.

      Sau đó thánh thi công bố tính phổ quát của công cuộc tạo thành do Đấng là Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa: "Nhờ người vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành”. Đồng thời, Người trao ban sự sống cho vạn vật, Người đem họ vào cuộc sống.
      Ngôi Lời của Thiên Chúa, Anh Sáng và Sự Sống loài người.
      Ở gần Thiên Chúa và là Thiên Chúa, Ngôi Lời từ nguyên thuỷ đã sống trong tương quan độc nhất với con người: Người

      không chỉ là Đấng tạo thành, Người còn là “Sự Sống" và “Ánh Sáng”. Người không chỉ là nguồn gốc của mọi sinh vật, nhưng sự hiện diện của Người ở giữa chúng sinh còn tạo nên sự hiệp thông với sự sống siêu nhiên. Người cũng là Anh Sáng: Không phải là ánh sáng vũ trụ, mà là ánh sáng thần linh và siêu phàm, hướng dẫn con người.

      - Chứng tá của Gioan Tẩy Giả.
      Trái ngược với vẻ trịnh trọng trong nhưng câu đầu của Lời Tựa, giờ đây Gioan Tẩy Giả bước lên sân khấu: "Có một Người…”

      Sự Sáng đến thế gian đã có một nhân chứng đi trước, đó là Gioan, con ông Giacaria. Vẻ cao cả của con người này là ông được Thiên Chúa sai đến, và ông đã đón nhận sứ mệnh làm chứng cho Anh Sáng: với tư cách là Tiền hô, ông hướng dẫn người ta đến với đức tin, tin vào Đấng là Anh Sáng, là Đấng phải chiếm được tất cả địa vị: "ông không phải là Anh Sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng”.

      - Anh Sáng đã đến trong thế gian.
      + Nhưng khi Anh Sáng đến thế gian thì con người lại từ chối và chống đối. Thế gian mà Ngôi Lời đã tạo thành lại khước từ Anh Sáng, thật là trớ trêu! (vấp phạm): Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người”.
      Còn trớ trêu hơn nữa, là "gia nhân của Người”, dân của Lời hứa, dân của Giao ước, "đã không đón nhận Người”.
      + "Còn những ai đón nhận Người - dù là dân Israel hay dân ngoại thì Người cho họ quyền trở nên Con Thiên Chúa?

      - Ngôi Lời đã trở nên người phàm.
      + Gioan đã viết "người phàm”, theo đúng chữ là "trở nên xác thịt”; từ "xác thịt" ở đây không có nghĩa đối nghịch với linh hồn, nhưng có ý nói con người dưới chiều kích mỏng giòn, dễ hư nát.
      + "Người cư ngụ giữa chúng ta" ( theo đúng chữ: Người cắm lều của Người giữa chúng ta): độc giả của Gioan đọc cụm từ này liền nghĩ ngay đến "nơi ở" của Thiên Chúa ở giữa dân Người. Sự hiện diện của Đức Chúa ở giữa dân Người, được tượng trưng bằng Lều giao ước trong sa mạc, thời Xuất Hành, rồi bằng Đền thờ Giêrusalem, giờ đây thể hiện cách hoàn hảo nơi Đức Giêsu trở nên người phàm: (Ga 2,19-22: "Chúa nói về Đền thờ thân xác Người").
      + "Chúng tôi được nhìn thấy vinh quang của người" trong con người Giêsu, cộng đoàn của Gioan quả quyết rằng họ được nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa, nghĩa là: một phẩm chất, một vầng hào quang mạc khải Thiên Chúa.

      - Đức Giêsu Kitô đã mạc khải Thiên Chúa vô hình.
      "Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả, nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng vốn hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết”.

      Jean Perron nhận xét: "Bài Thánh Thi đã khởi đầu từ Ngôi Lời ở nơi cung lòng Chúa Cha cũng kết thúc bằng tư tưởng "Con Một ở nơi cung lòng Chúa Cha": đó chính là dòng chảy cuộc sống của Đức Giêsu, cũng giống như sẽ nhắc lại ở câu kết vào cuối đời Người: "Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa" (Ga 13,3). Nhưng trong "tiến trình đi lên cùng Đấng duy nhất cần nhận biết (không ai đã nhìn thấy Thiên Chúa, ngay cả đến Môsê ), Người muốn đem ta đi cùng: "Để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó" (14,3). Và còn hơn thế nữa, trong cuộc sống thân mật mà Người đã dẫn ta vào: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy" (14,23)" ("Lire de Bible", số 52, trang 34-35).

      BÀI ĐỌC THÊM.
      1. Một câu không có "động từ " thì không có nghĩa
      ("Bible du Dimanche" trang 51 1-512).
      (Trong tiếng Pháp, "verbe" vừa nghĩa là động từ, vừa là Lời: một cách chơi chữ ở đây.)

      "Và Ngôi Lời đã trở nên người phàm”. Một từ ngữ, nhẹ hơn một làn khói, làm sao có thể nắm bắt được?

      Thiên Chúa đã không sử dụng thuật pháp của tử ngữ, mà đã nói qua một trẻ thơ được bọc trong tã nơi máng cỏ và còn chưa biết nói, đã nói qua một tử tội không còn có thể nói được nằm trên thập giá. Người nói trong yếu đuối và thinh lặng. Sự thinh lặng hùng biện từ nay đã chứng minh cho mọi người rằng Thiên Chúa không im lặng. Lời của Người không còn là một chuỗi tiếng nói mà đã trở nên người phàm.

      Từ khi con người trông đợi Thiên Chúa, họ cảm nghiệm sự xa vắng của Người hơn là được hưởng sự hiện diện của Người: "Không ai đã được thấy Thiên Chúa'? Điều đó không ngăn cản họ nói nhiều về Người, tuy Người vẫn vắng bông và xa lạ. Họ nói mà không cần nhờ đến những bậc hiền triết, Môsê, Lề Luật, và ngay cả đến Gioan Tẩy Giả hoặc các nhà thông thái. Dù dùng rất nhiều từ cũng không thể có sức thuyết phục bằng một lời nói. Bởi vậy trong Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa không ngừng nói "Lời cuối cùng” của Người.

      Chỉ có Lời ("động từ") này mới làm cho câu có ý nghĩa. Nhờ Người mà những chuỗi từ của con người mới tìm được sự mạch lạc Người không loan báo những chân lý phụ thuộc, nhưng chính Người là Chân lý; Người soi sáng những sai lầm nơi chúng ta vì chỉ có Người là Anh Sáng.

      Tuy nhiên, chỉ có Anh sáng mới khơi dậy bóng tối. Chỉ có chân lý mới làm thương tổn. Bởi vậy, số phận của Lời này là bị chống đối và đôi khi bị khai trừ. Nhưng cũng chính vì vậy mà Lời Chúa đánh động chúng ta và trờ nên hiển nhiên trước mắt chúng ta".

      2. Vài câu Kinh Thánh tóm tắt hoàn hảo cả công trình Thiên Chúa đã thực hiện thể cứu-độ nhân loại.
      (L. Sintas trong "Parole de diệu pour la méditation ét l'homélte -Năm C", Médiaspaul. trang 20-2).
      Mấy câu Gioan dùng để bắt đầu Tin Mừng là những câu nổi trọng nhất trong truyền thống bình dân của tội Thánh. Cách đây không lâu, mọi thánh lễ đều kết thúc bàng bản văn này. Trong, các giáo xứ ở Pháp, khi cha mẹ lo lắng về con cái đến xin linh mục cầu nguyện cho chúng, thì họ đưa chúng đến nhà thờ, và linh mục thường đọc những câu Tin Mừng này, trong khi đặt dây stola trên đầu chúng. Đó không chỉ do lòng sùng mộ của một vài người, mà là một thói quen phổ biến trong quần chúng Kitô giáo. Việc chọn những câu Tin Mừng này thật ra rất chính đáng. Bởi vì những câu này là như bản tóm lược tất cả công trình mà Thiên Chúa đã thực hiện để cứu độ nhân loại.
      - Khởi đầu là xác quyết long trọng về bản tính của Đức Giêsu, Lời của Thiên Chúa. Do Lời, Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ. Thiên Chúa phán... và sự vật liền có. Nhờ người vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành”. Gioan đã cả quyết rằng lúc tạo dựng, dù bóng tối dày đặc, cũng không thể cản được ánh sáng tạo dựng. Anh sáng đã xô đẩy và quét sạch bóng tối để ngự trị.

      Trái với quyền lực mạnh mẽ lúc ban đầu của Lời Thiên Chúa, bỗng chốc Lời đó trở nên bất lực. "Ngôi Lời là sự sáng thật. Người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng thế gian lại không nhận biết Người”. Đó là xác quyết về mầu nhiệm Nhập Thể. Lời của Thiên Chúa, Lời tạo thành, đã đến ở giữa phàm nhân. Nhưng bóng tối dày đặc đã ngăn cản ánh sáng nên thế gian không đón nhận ánh sáng. Ngay khi xác định việc Thiên Chúa Nhập thể, thì cũng cho thấy sức mạnh của tự do con người. Tự do ấy có thể khiến họ khước từ ánh sáng. Tội lỗi là một chướng ngại ngăn cản con người đến với Thiên Chúa, chướng ngại mà chính Thiên Chúa cũng không. thể vượt qua nếu con người không đồng ý.

      Con Thiên Chúa "đã đến nơi nhà Người và gia nhân Người không đón nhận Người”. Đó là số phận của Người mới đến giữa nhân loại. Từ khi trốn sang Ai Cập, cho đến cuộc khổ nạn, chết trên thập giá, Người từ Thiên Chúa mới đến này bị anh em đồng loại của mình ruồng bắt, nghi ngờ, tố cáo, xét xử và hành quyết. Đó là công việc của ý muốn con người khi ý muốn ấy bị chi phối bởi đam mê xác thịt, đam mê trần thế và tính khát máu. Chúng ta gọi tên nó là tội. Khi phạm tội, người ta tìm thoả mãn ý riêng mình, thay vì tìm ý Chúa và vinh quang của Người. Như vậy, qui ngã là dấu cho thấy con người có thể gây cho Thiên Chúa những đau khổ tệ hại nhất, nỗi nhục nhằn kinh khủng nhất.
      Tuy nhiên, Lời Thiên Chúa sẽ chiến thắng. Chiến thắng không do áp chế con người nhưng nhờ sự hoán cải trong tâm hồn. "Nhưng những ai đón nhận Người, những kẻ tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên Con Thiên Chúa”.

      Một bức hoạ diễn tả thảm kịch của nhân loại đã được vẽ lên. Nó họa lai sự cao cả của Thiên Chúa, Đấng Sáng tạo và ơn cứu độ danh cho những người thiện tâm. Là nạn nhân của tính tự mãn, loài người không thể nào nhận biết Con Thiên Chúa nên đã đóng đinh Người trên thập giá. Chính thập giá lại trở nên cửa mở vào sự sống lại cho những ai chấp nhận đóng đinh tính tự mãn của mình trong cuộc sống hằng ngày, bằng tự nguyện từ bỏ vì đức tin. Lúc đó ánh sáng sẽ phủ ngợp con người họ".

      3. Tổng hợp sống động giữa hai quy trình xem là trái ngược ("Célébrer" số 264, trang 41-42).
      Có thể coi phần thứ nhất (1-14) là lịch sử của Ngôi Lời; người ta dùng ngôi thứ ba để nói về Ngài: “Người”, “trong Người”, "nhờ người". Qua việc dùng các động từ khác nhau, người ta lần lượt kể ra mối tương quan của Ngôi Lời với Thiên Chúa, vai trò của Người trong công cuộc tạo dựng, hoạt động của Người ở trần gian, và việc Người đến trong lịch sử nhân loại.

      Cách trình bày này có lẽ do thánh thi ở sách Châm Ngôn đoạn 8 và sách Ben Sira đoạn 24 gợi ý. Ở hai sách này, Khôn Ngoan tự thuật về đời mình: được Thiên Chúa tạo dựng, Khôn Ngoan gợi ý cho Thiên Chúa trong việc tạo dựng, Khôn Ngoan đi lại với con người, chất vấn con người và sau vậy sự Khôn ngoan được nhân cách hoá này là gì? Có lẽ phải hiểu là kế hoạch mà Thiên Chúa có ở trong trí khi tạo dựng vũ trụ. Ngay từ đầu, Người biết rằng một ngày kia Người sẽ mạc khải mình trọn vẹn để đem hạnh phúc đến cho loài người. Kế hoạch này đã có sẵn trong mọi công trình của Người, mọi sự đều nói lên ý nghĩa do Người đặt định; mọi tạo vật nói về Người, ai cũng có thể nhận biết Người và giao tiếp với Thiên Chúa...

      - Đọc phần thứ hai của Lời Tựa, ta cảm thấy mình ở trong một bối cảnh hoàn toàn khác: ba lần dùng danh xưng "chúng tôi" để chỉ cộng đoàn các môn đệ, ba câu vang lên như tiếng reo mừng, biểu lộ một cảm nghiệm ưu tuyển, mà ta cũng thấy ở thời Gioan, chương 1: "Điều vẫn có ngay từ lúc thời đầu, điều mà chúng tôi đã nghe...? Lần này không còn nói về điều ở trên trời, nhưng nói về cuộc gặp gỡ lịch sử, cự thể với Đức Giêsu Nagiarét, một cảm nghiệm không thể quên, được kêu lên trong niềm kinh ngạc và xúc động: phải, chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Chúa Cha, phải, chúng tôi đã nhìn thấy sự sống chiến thắng sự chết, phải chúng tôi đã nhìn thấy bóng tối không ngăn cản được ánh sáng. Từ cuộc gặp gỡ lịch sử này, chúng ta đi ngược lên tới tận nguồn gốc của Ngôi Lời. Như vậy Lời Tựa đã tổng hợp hai quy trình xem ra trái ngược nhau một cách sống động: giải thích tổng quát lịch sử và cảm nghiệm độc nhất vào một thời điểm nhất định. Bởi vậy, Ngôi Lời đã trở nên người phàm, có nghĩa cụ thể là: ý định mà Thiên Chúa có khi tạo thành vũ trụ đã được tỏ lộ qua sự kiện Nhập Thể - đó là dấu chỉ mà Người nhắn gởi đến nhân loại qua mọi thành phần trong vũ trụ, qua sự gắn bó chặt chẽ của mọi vật trong trời đất, qua Giao ước tạo lập nên một dân tộc tất cả những điều đó giờ đây đã hình thành và mang khuôn mặt của Đức Giêsu Nagiarét, Lời duy nhất của Chúa Cha, và từ nay mọi người hoàn thành số phận của mình bằng cách trở nên giống Chúa Con".





    PeterLuong




Về Đầu Trang Go down
http://www.clcgk.forumvi.com
CLCgk
THƯỢNG VIỆN
THƯỢNG VIỆN


Tổng số bài gửi : 351
Điểm NHIỆT TÌNH : 1013
Ngày tham gia : 26/10/2009

Những bài suy niệm GIÁNG SINH - Page 2 Vide
Bài gửiTiêu đề: Re: Những bài suy niệm GIÁNG SINH   Những bài suy niệm GIÁNG SINH - Page 2 EmptyWed Dec 21, 2011 10:24 pm




    4. Chú giải của Noel Quesson
    Lc 2, 1-14


    ***

      Noel là một cuốn sách đẹp chứa đầy hình ảnh dân gian. Chúng ta hãy ghi giữ hình ảnh đó, lúc nào cũng tươi xinh trước mắt chúng ta. Nhưng rõ ràng là Luca mời gọi ta hưởng tới một “chiêm niệm" nội tâm hơn: Trình thuật của ông là một “nhập đề" thần học dẫn vào Tin Mừng của ông, một Tin Mùng chỉ có thể nắm bắt trọn vẹn nhờ Đức tin.

      Thời ấy, hoàng đế Xêda Augustô ra chiếu chỉ truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ.
      Xêda Augustô là hoàng đế nổi tiếng nhất của Rôma (từ năm 30 trước Chúa Giêsu Kitô đến năm 14 sau CGK) . Vào năm 27, ông đã để cho Nghị viện phong cho mình tước hiệu: Thần Auguttô, tiếng Hỳ Lạp là "Sebastos", có nghĩa “xứng đáng được tôn thờ". Khi sử dụng tước hiệu diệu kỳ của một ông "vua trần gian" như trên, Luca muốn minh chứng cách tương phản rằng, Thiên Chúa xử sự khác biết bao: Người sẽ hạ sinh như một trẻ thơ giòn mỏng, thuộc lớp người di cư đáng thương.

      Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên được thực hiện hồi ông Quiriniô làm tổng trấn xứ Xyria.
      Nếu bức tranh của lễ Noel đầu tiên này khá mờ tối.
      Xứ sở thì bị xâm chiếm. Dân cư thì lệ thuộc dưới ách thống trị của một quyền lực ngoại bang. Nhờ lịch sử ngoại giáo, ta biết rằng, cuộc kiểm tra của Quiriniô này, đã khiến dân nổi dậy, vào năm 6, trong thời kỳ cai trị thứ hai, do việc kiểm tra tài sản ruộng đất và công trình xây cất của dân chúng... để đánh thuế? ít năm sau, Đức Giêsu cũng phải đương đầu với viên tổng trấn khác, Phongxiô Philatô.
      Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông Giuse từ thành Nagiarét, miền Galilê, lên miền Giuđê".
      Giuse để cho các biến cố hướng dẫn mình. Thế giới mà Đức Giêsu bước vào là một thế giới khó khăn, đầy những gò bó (Noel không đẹp chút nào). Nhưng "Thiên Chúa thường viết thẳng trên những đường cong của chúng ta" . Và những biến cố là "những ông thầy mà Thiên Chúa tự tay trao cho chúng ta" (Pascal). Tôi có xác tín rằng, Thiên Chúa vẫn có đó, đang hạch hỏi tôi, trong tất cả những gì đang diễn tiến, trong tất cả những gì đang xảy đến với tôi không? ông lên đường cùng với một người nữ đang mang thai.

      Lên thành của Đavít, gọi là Bêlem, vì ông cũng thuộc gia tộc của Đavít.
      Luca "giải thích" biến cố dưới ánh sáng của lời sấm Mikha (5,1-4) Đấng sẽ sinh ra là "cứu Chúa” mà "một thiếu nữ Sion phải hạ sinh”, "trong một làng bé nhỏ nhất miền Giuđê", giữa những người nghèo khổ, thuộc "số nhỏ còn lại"... trong "thành của Đavít". Nhưng thực tế, vị cứu Chúa này lại hoàn toàn khác với những điều người ta mong đợi Người ta mong chờ Người phải là Đấng quyền năng, giàu sang, mạnh mẽ! Thế mà Người lại đến trong tư thế bất lực, nghèo khó, yếu di... Thiên Chúa nhận thấy, những người đạo đức lầm lẫn về Người khiến Người đã phải bước vào trong thế giới "kín mật", một cách bất hợp pháp. Người đã vượt lậu qua ranh giới chúng ta. Không khi nào "những nhà hữu trách" chịu chấp nhận Người, nếu Người nói rõ danh tánh mình? Người ta không thể có ý tưởng về một Thiên Chúa lại chịu xuất hiện qua vẻ bề ngoài tầm thường như thế, không màng đến những đặc quyền của mình, chịu hoàn toàn thiếu thốn những gì xứng hợp với Thiên Chúa, xem ra coi thường những nghi lễ uy nghi mà tôn giáo thiết lập để tôn vinh mình!
      Nếu tất cả những điều đó không đáng kể với Thiên Chúa, vậy thì cái gì đáng kể đối với Người.

      Ông lên đó khai tên cùng với vợ mình là bà Maria, lúc ấy đang có thai.
      Bản văn Hy Lạp viết: "Với hôn thê của mình là Maria, lúc ấy đang có thai". Ở đây Luca muốn sử dụng cùng một từ như lúc diễn tả cảnh Truyền tin (Lc 1,27). Dù đã hứa hẹn với nhau cách chính thức nhưng Giuse và Maria không sống chung đụng với nhau Maria vẫn là "trinh nữ” Vậy mà, cô lại "có thai"! Tại sao ta lại cứ giấu Thiên Chúa đến giới nức của mình thôi? Ta đã lầm lẫn về Thiên Chúa, vì tưởng rằng Thiên Chúa cũng chỉ có khả năng như chúng ta. Lạy Chúa, với đức tin, con muốn tôn thờ quyền năng sáng tạo của Chúa, qua tư cách làm mẹ phi thường trên, làm mẹ mà vẫn còn trinh khiết chỉ mình Thiên Chúa là "Cha" của em bé thơ mà Maria, vị hôn thê đang mang thai.

      Khi hai người ở đó, thì bà Maria đã đến ngày mãn nguyện khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng.
      Trình thuật trên trình bày thật là quá giản dị! Khác hẳn với những gì đã mô tả trong các truyện thần thoại và cổ tích. Đó là một bé thơ như bất cư một bé thơ nào khác, không chút hào quang lượn quanh đầu, hoàn toàn đơn sơ và trần trụi!

      Thiên Chúa phán: Ta đã tạo thành các ngươi theo “hình ảnh Ta" các người là những người cha, người mẹ, các người biết yêu con cái mình cách diệu kỳ, chăm sóc nâng niu chúng, 'đỡ nâng chiếc đầu bé bỏng mong manh của chúng, cẩn thận kiểm tra nhiệt độ của bầu sữa, rình xem từng nụ cười... Vậy các ngươi không nhận ra Ta cũng giống các ngươi sao? Nhờ những cử chỉ mẫu tử của riêng mình, các bà mẹ một phần nào cũng nhận ra Ta là ai...
      Bà lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong quán trọ.
      Bị tràn ngập bơi những lượng thông tin ly kỳ xa lạ cảm kích mà phương tiện thông tin đại chúng đổ trên chúng ta, liệu chúng ta còn đủ khả năng để "nhận ra" cái tầm thường Thiên Chúa đã chọn lựa để hiện diện không? Biến cố vĩ đại nhất của lịch sử nhân loại vừa mới xảy ra " Từ giờ trở đi", Thiên Chúa cũng là một con người, Đức Giêsu? Từ giây phút đó, Thiên Chúa đã liên kết số phận đời Người với số phận chúng ta . Duyên cớ đời ta đã trở nên duyên cớ của Người. Thiên Chúa ở "củng chúng ta". Chúng ta được phép hy vọng tất cả. Những biến cố này không gây cảm giác bề ngoài. Thiên Chúa nằm "trong máng cỏ", hiện diện trong một "hang" bò lừa, dụng cụ giúp cho đoàn vật ăn uống. Thiên Chúa đó thật là dễ gây ngỡ ngàng! Thiên Chúa đó thật là dễ gây cảm kích! Khi đứng trước thái độ tự phụ của Auguttô? Ta còn phải thêm rằng, Thiên Chúa không làm bộ tỏ ra yếu đuối. Trên lớp rạ rơm nới hang đá, cũng như trên khúc gỗ của thập giá, Người đã mạc khải cho ta những gì là thâm sâu nhất, đích thực nhất trong Người, trong Thiên Chúa. Ai thấy tôi là thấy Cha". (Ga 149). Thiên Chúa là tình yêu. Và tình yêu trở nên yếu ớt trước kẻ mà Người yêu mến. Ai thống trị, thì không yêu thương!

      Trong vùng ấy, có những người chăn chiên thức đêm ngoài trời canh giữ đàn vật.
      Không phải là biểu tượng cho nét đẹp thôn dã và thiên nhiên, như thường con vật, vẽ nặn trong dịp Noel muốn làm cho ta tưởng như thế, thực sự những "người chăn chiên", trong quan niệm thời đó, là biểu tượng cho những người bị khinh bỉ. Nghề nghiệp của họ khiến thiên hạ dễ coi thường. Họ được kể như loại người sống "ngoài luật pháp”. Người ta coi họ như những tên cướp giật, sống bằng những của cướp bóc. Họ không được quyền dân sự để làm chứng theo lẽ công bằng. Được kể như những người ngu dốt, họ không có giờ để tham dự những buổi giáo lý mà các nhân trí thức thường truyền đạt trong các hội đường. Được xếp vào loại người ô nhơ, nên nghề nghiệp của họ cản trở họ tôn trọng việc nghỉ ngơi ngày Sa-bát thánh thiện! Và rồi là người không sạch, họ cảm thấy mình không hay ho gì, chỉ là hạng "quê mùa"!

      Thế mà, họ lại là những người được Thiên Chúa tuyển chọn đầu tiên! Thiên Chúa yêu thương những kẻ "bé mọn", những người "nghèo khổ" những loại người mà kẻ khác thường khinh bỉ. Đó sẽ là một trong những đề tài của Tin Mừng Luca, Xin tạ ơn Chúa!

      Bỗng sứ thần Chúa hiện ra đứng bên họ, và vinh quang của Chúa bao trùm chung quanh.
      Vẻ “huyền diệu” chỉ khởi sự từ đây trong trình thuật này. Nhà thần học có thể cảnh giác. Hãy ý tứ! Coi chừng! Kiểu nói này là một diễn tả thôi, bởi vì các cộng đồng đã xác định thiên thần không có thân xác. Còn nhà thi sĩ và những người bình dân lại nói: các sứ thần đó giúp ta biết ngỡ ngàng trước cảnh thần thiêng, những gì vượt quá con người mình .

      Nhưng ý nghĩa của sự kiện gợi lên khá rõ: cho đến lúc này, trong toàn bộ Kinh thánh. "Vinh quang" là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa, chỉ dành riêng nơi Đền thờ Giêrusalem. Nhưng từ nay trở đi, Vinh quang này bao trùm những người nghèo. "Những gì anh em làm cho kẻ bé mọn nhất, tức là anh em đang làm cho Thầy” (Mt 25).

      Một Thiên Chúa hành xử như thế, thật là ngạc nhiên! thật là cảm kích! Xin tạ ơn Chúa.
      Họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo họ: "Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân”.
      Chúng ta vẫn thương nói, ta chưa bao giờ nghe được tiếng nói của Thiên Thần. Họ không hề gây tiếng động. “Tiếng nói" của họ là im lặng. Hãy lắng nghe! Hãy để ý lắng nghe! Nhất là đừng có ồn ào. Mọi "Truyền đạt" của Thiên Chúa đều là "Tin Mừng tin vui". Đây còn là một đề tài của Luca nữa. Và tin vui này mang một tầm cỡ "phổ quát” cho tất cả mọi người. Đó là một đề tài khác của Luca.

      Hôm nay, Đấng cứu độ anh em đã ra đời trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa.
      Các sứ thần không nhiều lời. Lời "truyền đạt" của họ rất ngắn gọn. Lời thông báo đó đi ngay vào điểm cốt yếu. Họ công bố "giấy chứng minh" đích thực của hài nhi chưa ai biết tiếng, với ba tước hiệu của Thiên Chúa: 1. Đấng Cứu độ: sotér 2. Đấng Kitô: Christos 3. Cứu Chúa? Kurios.

      Luca sẽ không khi nào sử dụng những tước hiệu đó nữa trong Tin Mừng của ông, trước khi kết thúc cuốn sách. Thiên Chúa phán, hãy để ý, Giêsu bé nhỏ này, hôm nay không quan trọng gì, nhưng chính Người sẽ là Đức Chúa vinh quang phục sinh. Những đoạn Tin Mừng thời thơ ấu đều được Luca diễn tả như một mở đầu dẫn vào cuốn sách này, mà ta chỉ thực sự hiểu dược vào lúc kết thúc. Hài nhi vừa sinh hạ có một bản tính Thiên Chúa (Người là Đức Chúa) và mang một sứ vụ thần thiêng (Người là Đấng cứu độ) Tính cách "Cứu Chúa" này chưa tỏ hiện. Hãy chờ xem!

      Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: "Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ".
      Điều mà sứ thần báo hiệu như dấu chỉ để nhận ra Đấng Cứu độ: đó là sự "nghèo khó" và "yếu đuối"! Hãy ngừng chạy, hãy đến trước máng cỏ. Biết đâu bạn lại không khám phá ra ở đó một biểu tượng bí ẩn nào? Dù sao Thiên Chúa đang hiến mình tại đó cách thực sự để làm của "ăn”! Lạy Cha, con xin ngợi khen Cha, vì điều Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết, mà Cha lại mạc khải cho những người bé mọn" (Lc 10,21) . Bánh của Thiên Chúa làm no đủ những tâm hồn người nghèo.

      Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương".
      Đây là lời tung hô thực hiện trước những lời ca tụng dịp rước lá (Lc 19,38).





    CLCgk




Về Đầu Trang Go down
Sponsored content




Những bài suy niệm GIÁNG SINH - Page 2 Vide
Bài gửiTiêu đề: Re: Những bài suy niệm GIÁNG SINH   Những bài suy niệm GIÁNG SINH - Page 2 Empty







    Sponsored content




Về Đầu Trang Go down
 

Những bài suy niệm GIÁNG SINH

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Trang 2 trong tổng số 2 trangChuyển đến trang : Previous  1, 2
* Viết tiếng Việt có dấu, là tôn trọng người đọc.
* Chia sẻ bài sưu tầm có ghi rõ nguồn, là tôn trọng người viết.
* Thực hiện những điều trên, là tôn trọng chính mình.

- Nếu chèn smiles có vấn đề thì bấm a/A trên phải khung viết bài

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Diễn Đàn :: °·♥ †HỌC HỎI† ♥·° :: LINH THIÊNG VÀO ĐỜI
 :: GIÁNG SINH

-
free counters